6

Đức Chúa Jêsus tại Na-xa-rét

(Mat 13:53-58; Lu 4:16-30)

1 Đức Chúa Jêsus đi khỏi đó, đến quê hương mình, có các môn đồ cùng đi theo. 2 Đến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu dạy dỗ trong nhà hội; thiên hạ nghe Ngài, lấy làm lạ mà nói rằng: Người bởi đâu được những điều nầy? Sự khôn sáng mà người được ban cho là gì, và thể nào tay người làm được những phép lạ dường ấy? 3 Có phải người là thợ mộc, con trai Ma-ri, anh em với Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, và Si-môn chăng? Chị em người há chẳng phải ở giữa chúng ta đây ư? Chúng bèn vấp phạm vì cớ Ngài. 4 Song Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Đấng tiên tri chỉ bị quê hương mình, bà con mình và trong nhà mình khinh dể mà thôi. 5 Ở đó, Ngài không làm phép lạ nào được, chỉ đặt tay chữa lành một vài người đau ốm; 6 và Ngài lấy làm lạ vì chúng chẳng tin.
 Rồi Ngài đi khắp các làng gần đó mà giảng dạy.

Mười hai sứ đồ được sai đi

(Mat 10:5-15; Lu 9:1-6)

7 Ngài bèn kêu mười hai sứ đồ, bắt đầu sai đi từng đôi, ban quyền phép trừ tà ma. 8 Ngài truyền cho sứ đồ đi đường đừng đem chi theo hết, hoặc bánh, hoặc bao, hoặc tiền bạc trong dây lưng, chỉ đem một cây gậy mà thôi; 9 chỉ mang dép, đừng mặc hai áo.
10 Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hễ nhà nào các ngươi sẽ vào, hãy cứ ở đó, cho đến khi đi. 11 Nếu có chỗ nào, người ta không chịu tiếp các ngươi, và cũng không nghe các ngươi nữa, thì hãy đi khỏi đó, và phủi bụi đã dính chân mình, để làm chứng cho họ.
12 Vậy, các sứ đồ đi ra, giảng cho người ta phải ăn năn; 13 đuổi nhiều ma quỉ, xức dầu cho nhiều kẻ bịnh, và chữa cho được lành.

Giăng Báp-tít qua đời

(Mat 14:1-12; Lu 9:7-9)

14 Vả, vua Hê-rốt nghe nói về Đức Chúa Jêsus (vì danh tiếng Ngài đã nên lừng lẫy), thì nói rằng: Giăng, là người làm phép báp-têm, đã từ kẻ chết sống lại; cho nên tự người làm ra các phép lạ. 15 Người thì nói: Ấy là Ê-li; kẻ thì nói: Ấy là đấng tiên tri, như một trong các đấng tiên tri đời xưa, 16 Nhưng Hê-rốt nghe vậy, thì nói rằng: Ấy là Giăng mà ta đã truyền chém, người đã sống lại.
17 Số là, Hê-rốt đã sai người bắt Giăng, và truyền xiềng lại cầm trong ngục, bởi cớ Hê-rô-đia, vợ Phi-líp em vua, vì vua đã cưới nàng, 18 và Giăng có can vua rằng: Vua không nên lấy vợ em mình. 19 Nhân đó, Hê-rô-đia căm Giăng, muốn giết đi. 20 Nhưng không thể giết, vì Hê-rốt sợ Giăng, biết là một người công bình và thánh. Vua vẫn gìn giữ người, khi nghe lời người rồi, lòng hằng bối rối, mà vua bằng lòng nghe.
21 Nhưng, vừa gặp dịp tiện, là ngày sanh nhựt Hê-rốt, vua đãi tiệc các quan lớn trong triều, các quan võ, cùng các người tôn trưởng trong xứ Ga-li-lê. 22 Chính con gái Hê-rô-đia vào, nhảy múa, đẹp lòng Hê-rốt và các người dự tiệc nữa. Vua nói cùng người con gái ấy rằng: Hãy xin ta điều chi ngươi muốn, ta sẽ cho. 23 Vua lại thề cùng nàng rằng: Bất kỳ ngươi xin điều chi, ta cũng sẽ cho, dầu xin phân nửa nước ta cũng vậy. 24 Nàng ra khỏi đó, nói với mẹ rằng: Tôi nên xin điều chi? Mẹ rằng: Cái đầu của Giăng Báp-tít. 25 Tức thì nàng vội trở vào nơi vua mà xin rằng: Tôi muốn vua lập tức cho tôi cái đầu Giăng Báp-tít để trên mâm. 26 Vua lấy làm buồn rầu lắm; nhưng vì cớ lời thề mình và khách dự yến, thì không muốn từ chối nàng. 27 Vua liền sai một người lính thị vệ truyền đem đầu Giăng đến. 28 Người ấy đi chém Giăng trong ngục; rồi để đầu trên mâm đem cho người con gái, và người con gái đem cho mẹ mình. 29 Môn đồ Giăng nghe tin, đến lấy xác người chôn trong mả.

Chúa hóa bánh ra nhiều, lần thứ nhứt

(Mat 14:13-21; Lu 9:10-17; Gi 6:1-14)

30 Các sứ đồ nhóm lại cùng Đức Chúa Jêsus, thuật cho Ngài mọi điều mình đã làm và dạy. 31 Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hãy đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một chút. Vì có kẻ đi người lại đông lắm, đến nỗi Ngài và sứ đồ không có thì giờ mà ăn. 32 Vậy, Ngài và sứ đồ xuống thuyền đặng đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ. 33 Nhưng nhiều người thấy đi, thì nhìn biết; dân chúng từ khắp các thành đều chạy bộ đến nơi Chúa cùng sứ đồ vừa đi, và đã tới đó trước.
34 Bấy giờ Đức Chúa Jêsus ở thuyền bước ra, thấy đoàn dân đông lắm, thì Ngài động lòng thương xót đến, vì như chiên không có người chăn; Ngài bèn khởi sự dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Trời đã chiều, môn đồ tới gần Ngài mà thưa rằng: Chỗ nầy là vắng vẻ, và trời đã chiều rồi; 36 xin cho dân chúng về, để họ đi các nơi nhà quê và các làng gần đây đặng mua đồ ăn. 37 Ngài đáp rằng: Chính các ngươi phải cho họ ăn. Môn đồ thưa rằng: chúng tôi sẽ đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh để cho họ ăn hay sao? 38 Ngài hỏi rằng: Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi xem thử. Môn đồ xem xét rồi, thưa rằng: Năm cái bánh và hai con cá. 39 Ngài bèn truyền cho môn đồ biểu chúng ngồi xuống hết thảy từng chòm trên cỏ xanh. 40 Chúng ngồi xuống từng hàng, hàng thì một trăm, hàng thì năm chục. 41 Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa. 42 Ai nấy ăn no nê rồi; 43 người ta lượm được mười hai giỏ đầy những miếng bánh và cá còn thừa lại. 44 Vả, số những kẻ đã ăn chừng năm ngàn người.

Đức Chúa Jêsus đi bộ trên biển

(Mat 14:22-23,34-36; Gi 6:15-21)

45 Rồi Ngài liền giục môn đồ vào thuyền, qua bờ bên kia trước mình, hướng đến thành Bết-sai-đa, trong khi Ngài cho dân chúng về. 46 Ngài lìa khỏi chúng rồi, thì lên núi mà cầu nguyện.
47 Đến tối, chiếc thuyền đương ở giữa biển, còn Ngài thì ở một mình trên đất. 48 Ngài thấy môn đồ chèo khó nhọc lắm, vì gió ngược. Lối canh tư đêm ấy, Ngài đi bộ trên biển mà đến cùng môn đồ; và muốn đi trước. 49 Môn đồ thấy Ngài đi bộ trên mặt biển, ngờ là ma, nên la lên; 50 vì ai nấy đều thấy Ngài và sợ hoảng. Nhưng Ngài liền nói chuyện với môn đồ và phán rằng: Hãy yên lòng, ta đây, đừng sợ chi. 51 Ngài bèn bước lên trên thuyền với môn đồ, thì gió lặng. Môn đồ càng lấy làm lạ hơn nữa; 52 vì chẳng hiểu phép lạ về mấy cái bánh, bởi lòng cứng cỏi.
53 Khi Ngài và môn đồ đã qua khỏi biển, đến xứ Ghê-nê-xa-rết, thì ghé thuyền vào bờ. 54 Vừa ở trong thuyền bước ra, có dân chúng nhận biết Ngài, 55 chạy khắp cả miền đó, khiêng những người đau nằm trên giường, hễ nghe Ngài ở đâu thì đem đến đó. 56 Ngài đến nơi nào, hoặc làng, thành, hay là chốn nhà quê, người ta đem người đau để tại các chợ, và xin Ngài cho phép mình ít nữa được rờ đến trôn áo Ngài; những kẻ đã rờ đều được lành bịnh cả.

6

Arăng Hơngah Ƀu Tŭ Ju̱m Yêsu Pơ Plei Nazaret

(Mathiơ 13:53-58; Luk 4:16-30)

1Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng anŭn laih anŭn glaĭ pơ plei Ñu pô, ƀing ding kơna Ñu ăt nao hrŏm hăng Ñu mơ̆n. 2Tơdang truh hrơi Saƀat, Ñu čơdơ̆ng pơtô pơblang amăng sang jơnum laih anŭn lu mơnuih hơmư̆ Ñu le̱ng kơ hli̱ng hla̱ng soh sel.
 Ƀing gơñu pơtơña kơ tơdruă gơñu tui anai, “Pơpă Pô anai hơmâo hơdôm tơlơi anŭn lĕ? Hơget tơlơi rơgơi arăng hơmâo pha brơi laih kơ Ñu kiăng kơ Ñu dưi ngă tơlơi mơsêh mơyang lĕ?
3Ƀu djơ̆ ôh hă anai jing pô trah kơyâo? Ƀu djơ̆ ôh hă Ñu jing ană đah rơkơi HʼMari laih anŭn ayŏng kơ Yakơ, Yôsêp, Yudas laih Simôn? Ƀu djơ̆ ôh hă ƀing adơi đah kơmơi Ñu ăt dŏ hrŏm hăng ƀing ta pơ anai?” Laih anŭn ƀing gơñu pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yêsu biă mă yơh.
4Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kơnơ̆ng amăng plei pla ñu pô, amăng ƀing adơi ai ñu laih anŭn amăng sang anŏ ñu pô đôč yơh arăng ƀu pơpŭ pơyom ôh kơ pô pơala.” 5Ñu ƀu dưi ngă tơlơi mơsêh mơyang hơget ôh pơ anih anŭn, kơnơ̆ng ăh tơngan Ñu kơ ƀiă mơnuih ruă nuă đôč laih anŭn pơsuaih hĭ ƀing gơ̆. 6Laih anŭn Ñu dŏ kơtuă biă mă yuakơ ƀing gơñu ƀu hơmâo tơlơi đaŏ kơnang ôh. Giŏng anŭn, Ñu hyu pơtô pơblang amăng rĭm plei pla yơh.

Yêsu Pơkiaŏ Nao Pluh-Dua Čô Ƀing Ding Kơna

(Mathiơ 10:5-15; Luk 9:1-6)

7Yêsu iâu pluh-dua čô ding kơna rai pơ Ñu laih anŭn čơdơ̆ng pơkiaŏ ƀing gơñu nao dơdua čô hăng pha brơi kơ ƀing gơñu tơlơi dưi puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat mơ̆ng ƀing mơnuih yang sat ngă.
8Anai yơh jing tơlơi Ñu pơtă, “Anăm djă̱ ba gơnam hơget gĕt ôh kơ bruă ƀing gih hyu anai rơngiao kơ gai jra: Anăm djă̱ ba ôh ƀañ tơpŭng, kơdŭng gơnam ƀôdah prăk kăk amăng hơdrăng kơiăng gih. 9Čut bĕ klĭ juă, samơ̆ anăm buh dua blah ao ôh. 10Tơdang mông pă ƀing gih mŭt amăng sang hlơi, dŏ hĭ bĕ pơ anŭn hlŏng truh kơ hrơi ƀing gih tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng plei anŭn. 11Tơdah plei pă ƀu ju̱m ôh ƀing gih ƀôdah ƀu hơmư̆ tơlơi ƀing gih pơtô pơblang ôh, tơtŭh hĭ bĕ ƀruih lŏn mơ̆ng tơkai gih tơdang ƀing gih tơbiă đuaĭ hĭ, kiăng kơ pơrơđah kar hăng tơlơi ngă gơ̆ng jơlan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu yơh.”
12Tui anŭn, ƀing gơñu hyu pơtô pơblang kơ tơlơi mơnuih mơnam khŏm kơhma̱l hĭ tơlơi soh yơh. 13Ƀing gơñu puh pơđuaĭ lu yang sat laih anŭn ƀing gơñu trôč ia jâo ƀơi lu ƀing ruă duăm hăng pơsuaih hĭ ƀing gơ̆.

Tơlơi Djai Yôhan Pô Ngă Baptem

(Mathiơ 14:1-12; Luk 9:7-9)

14Pơtao Hêrôd hơmư̆ hing kơ tơlơi bruă ƀing gơñu hơmâo ngă anŭn, yuakơ anăn Yêsu arăng hơmư̆ hing djŏp djang laih. Đơđa mơnuih laĭ tui anai, “Yôhan pô ngă baptem hơmâo hơdip glaĭ mơ̆ng mơnuih djai dơ̆ng, yuakơ anŭn yơh ñu hơmâo tơlơi mơyang dưi ngă bruă anŭn.”
15Đơđa mơnuih pơkŏn laĭ tui anai, “Ñu jing Êliyah.”
 Laih anŭn đơđa mơnuih pơkŏn dơ̆ng laĭ tui anai, “Ñu jing pô pơala kar hăng sa čô amăng ƀing pô pơala đưm hlâo adih.”
16Samơ̆ tơdang Hêrôd hơmư̆ kơ tơlơi bruă anŭn, ñu laĭ tui anai, “Yôhan, jing mơnuih kâo čŏng hĭ laih tơkuai, hơmâo hơdip glaĭ laih mơ̆ng mơnuih djai!”
17Yuakơ Hêrôd pô yơh hơmâo pơđar laih kơ arăng mă Yôhan hăng akă hĭ laih anŭn krư̆ hĭ amăng sang mơnă. Ñu ngă bruă anŭn yuakơ HʼHêrôdias, jing bơnai adơi ñu Philip, jing pô ñu pơdŏ laih. 18Tơlơi anŭn truh yuakơ Yôhan pô ngă baptem ƀuăh kơ Hêrôd nanao tui anai, “Ƀu djơ̆ tui hăng tơlơi phiăn ôh kơ ih dŏ kơ bơnai adơi ih.” 19Tui anŭn, HʼHêrôdias pơrơmut pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yôhan laih anŭn kiăng pơdjai hĭ gơ̆ yơh, samơ̆ ñu ƀu dưi ngă ôh, 20yuakơ Hêrôd huĭ kơ Yôhan laih anŭn pơgang brơi ñu, yuakơ ñu thâo krăn Yôhan jing mơnuih tơpă rơgoh hiam yơh. Tơdang Hêrôd hơmư̆ Yôhan pơtô tui anŭn, ñu rŭng răng biă mă yơh, samơ̆ ñu ăt khăp hơmư̆ kơ Yôhan pơtô pơblang mơ̆n.
21Hơnăl tuč, hrơi mơyŭn anŭn kơ HʼHêrôdias truh yơh. Ƀơi hrơi hơdơr kơ hrơi tơkeng kơ Hêrôd, Hêrôd pơkra sa tơlơi ƀơ̆ng huă kơ ƀing khua moa prŏng ñu, kơ ƀing khua tơhan ñu laih anŭn kơ ƀing khua djă̱ akŏ amăng kwar Galilê yơh. 22Tơdang pô ană dra HʼHêrôdias mŭt rai suang, ñu pơmơak kơ Hêrôd wơ̆t hăng ƀing tuai rai ƀơ̆ng huă pơ anŭn mơ̆n.
 Pơtao laĭ kơ pô dra anŭn tui anai, “Rơkâo kơ kâo bĕ hơget tơlơi ih kiăng, kâo či pha brơi kơ ih yơh.”
23Laih anŭn ñu ăt ƀuăn rơ̆ng kơ gơ̆ tui anai mơ̆n, “Hơget tơlơi ih rơkâo, kâo či pha brơi kơ ih yơh, wơ̆t tơdah truh kơ sămkrah dêh čar kâo tŭ mơ̆n.”
24Tui anŭn, pô ană dra anŭn tơbiă nao tơña kơ amĭ ñu tui anai, “Hơget kâo či rơkâo kơ ñu lĕ?”
 Amĭ ñu laĭ glaĭ tui anai, “Rơkâo bĕ akŏ Yôhan pô ngă baptem.”
25Ƀơi mông anŭn mơtam pô ană dra anŭn ječ ameč đuaĭ mŭt pơ pơtao hăng rơkâo tui anai, “Kâo kiăng kơ ih pha brơi kơ kâo akŏ Yôhan pô ngă baptem ƀơi sa boh ja̱m.”
26Pơtao rŭng răng biă mă, samơ̆ yuakơ tơlơi ñu ƀuăn rơ̆ng laih ƀơi anăp ƀing tuai ñu, ñu ƀu thâo hơngah hĭ kơ tơlơi pô dra anŭn rơkâo ôh. 27Tui anŭn ƀơi mông anŭn mơtam, pơtao pơđar brơi kơ tơhan gak ba rai akŏ Yôhan. Pô tơhan anŭn nao čŏng hĭ tơkuai Yôhan amăng sang mơnă, 28laih anŭn ba rai akŏ Yôhan ƀơi sa boh ja̱m. Ñu jao brơi akŏ anŭn kơ pô ană dra anŭn laih anŭn pô dra anŭn nao brơi akŏ anŭn kơ amĭ ñu HʼHêrôdias yơh. 29Tơdang ƀing ding kơna Yôhan hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, ƀing gơñu nao mă atâo Yôhan hăng dơ̱r pơ sa boh pơsat yơh.

Yêsu Čem Rơma-Rơbâo Čô Mơnuih

(Mathiơ 14:13-21; Luk 9:10-17; Yôhan 6:1-14)

30Ƀing ding kơna pơjao pơƀut glaĭ jum dar Yêsu laih anŭn ră ruai glaĭ kơ Ñu abih bang tơlơi bruă ƀing gơñu hơmâo ngă hăng pơtô pơblang laih. 31Giŏng anŭn, yuakơ hơmâo lu mơnuih nao pơ ƀing gơñu tơl Yêsu hăng ƀing ding kơna Ñu ƀu hơmâo mông kiăng kơ ƀơ̆ng huă ôh. Tui anŭn, Yêsu laĭ hăng ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Rai hrŏm hăng Kâo bĕ pơ anih rơiăt laih anŭn pơdơi ƀiă.”
32Tui anŭn, ƀing gơñu đĭ pơ sŏng đuaĭ hĭ hơjăn gơñu pô kiăng nao pơ anih rơiăt yơh. 33Samơ̆ lu mơnuih ƀuh ƀing gơñu đuaĭ hĭ laih anŭn thâo krăn pơpă anih ƀing gơñu či nao. Tui anŭn, ƀing ană plei anŭn mơ̆ng abih bang plei pla đuaĭ nao pơ anih anŭn hlâo kơ ƀing gơñu yơh. 34Tơdang Yêsu trŭn mơ̆ng sŏng, Ñu ƀuh ƀing mơnuih lu, Ñu glưh pran jua kơ ƀing gơñu yơh, yuakơ ƀing gơñu kar hăng triu ƀu hơmâo pô wai ôh. Tui anŭn, Ñu čơdơ̆ng pơtô pơblang kơ ƀing gơñu lu mơta tơlơi yơh.
35Tơdang ƀơi mông anŭn klăm mơmŏt laih, tui anŭn ƀing ding kơna nao pơ Yêsu hăng laĭ tui anai, “Mông anai klăm mơmŏt laih laih anŭn anih anai ăt hiăl măl biă mă. 36Brơi kơ ƀing ană plei glaĭ bĕ, tui anŭn ƀing gơñu dưi nao pơ plei pla jum dar anai kiăng kơ gơñu pô dưi blơi gơnam ƀơ̆ng.”
37Samơ̆ Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀing gih yơh pha brơi kơ ƀing gơñu gơnam ƀơ̆ng.”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Anŭn jing truh kơ dua-rơtuh denari kăh dưi blơi djŏp! Hiư̆m ngă, ƀing ta či pơhoăč hĭ hơdôm anŭn hă kiăng kơ blơi gơnam ƀơ̆ng hăng pha brơi kơ ƀing gơñu ƀơ̆ng?”
38Yêsu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơdôm tơlŏ ƀañ tơpŭng ƀing gih hơmâo lĕ? Nao ep kơsem bĕ!”
 Tơdang ƀing gơñu hơduah ƀuh laih, ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀing gơmơi hơmâo rơma tơlŏ ƀañ tơpŭng hăng dua drơi akan.”
39Giŏng anŭn, Yêsu pơtă kơ ƀing mơnuih lu anŭn dŏ be̱r ƀơi rơ̆k mơda pơpha jing lu khul. 40Tui anŭn, ƀing gơñu dŏ be̱r tui hăng tơpul sa-rơtuh čô laih anŭn tơpul rơmapluh čô yơh. 41Yêsu mă rơma tơlŏ ƀañ tơpŭng hăng dua drơi akan anŭn, angak lăng đĭ pơ adai, bơni hơơč laih anŭn pĕ hơdôm ƀañ tơpŭng anŭn. Giŏng anŭn, Ñu jao brơi kơ ƀing ding kơna Ñu pơpha kơ ƀing mơnuih lu anŭn yơh. Ñu ăt pơpha brơi dua drơi akan anŭn kơ abih bang ƀing gơñu mơ̆n. 42Abih bang ƀing mơnuih lu anŭn ƀơ̆ng trơi hrăp soh sel, 43laih anŭn ƀing ding kơna duñ mă hơdôm čơđeh rơmeh ƀañ tơpŭng hăng akan anŭn bă truh kơ pluh-dua bai mơtam yơh. 44Mrô ƀing đah rơkơi, jing ƀing ƀơ̆ng ƀañ tơpŭng anŭn, jing rơma-rơbâo čô mơtam yơh.

Yêsu Rơbat Ƀơi Jơlah Ia

(Mathiơ 14:22-33; Yôhan 6:15-21)

45Ƀơi mông anŭn mơtam, Yêsu brơi kơ ƀing ding kơna Ñu đĭ sŏng nao hlâo kơ Ñu pơ plei Bêtsaida, tơdang anŭn Ñu pô dŏ glaĭ kiăng kơ brơi ƀing mơnuih lu anŭn glaĭ. 46Tơdơi kơ ƀing mơnuih lu đuaĭ laih, Ñu đĭ nao pơ anih bŏl čư̆ kiăng kơ iâu laĭ.
47Tơdang mơmŏt laih, sŏng ƀing ding kơna Ñu truh ƀơi tŏng krah dơnao laih, samơ̆ Yêsu ăt dŏ hơjăn pơ anih bŏl čư̆. 48Yêsu ƀuh ƀing ding kơna Ñu waih sŏng tơnap tap biă mă, yuakơ angĭn thut klă̱ nao pơ ƀing gơñu. Mơguah kơplăh wăh mơnŭ tơdjô̆ tal blung, Yêsu rơbat nao pơ ƀing ding kơna Ñu ƀơi jơlah ia dơnao anŭn yơh. Yêsu jĕ či rơbat rơgao hĭ hloh kơ ƀing gơñu, 49samơ̆ tơdang ƀing gơñu ƀuh Yêsu rơbat ƀơi ngŏ jơlah ia dơnao anŭn, ƀing gơñu pơmĭn kơ Yêsu jing atâo yơh. Ƀing gơñu ur kraih yơh, 50yuakơ abih bang ƀing gơñu ƀuh Yêsu laih anŭn huĭ bra̱l.
 Ƀơi mông anŭn mơtam, Yêsu pơhiăp hăng ƀing gơñu tui anai, “Dŏ hơđơ̆ng bĕ! Kâo yơh anai. Anăm huĭ bra̱l ôh.”
51Giŏng anŭn, Yêsu đĭ amăng sŏng hrŏm hăng ƀing gơñu laih anŭn angĭn ăt dŏ rơiăt hĭ mơ̆n. Ƀing ding kơna Ñu dŏ kơtuă hli̱ng hla̱ng biă mă yơh, 52yuakơ ƀing gơñu aka ƀu thâo hluh ôh kơ bruă hrih ƀañ tơpŭng anŭn. Jua pơmĭn gơñu ăt dŏ kơpĭl.

Yêsu Pơsuaih Ƀing Duăm Ruă Pơ Plei Gennêsaret.

(Mathiơ 14:34-36)

53Tơdang ƀing gơñu găn nao truh laih, ƀing gơñu truh pơ tring Gennêsaret hăng akă sŏng gơñu pơ anŭn. 54Tơdang ƀing gơñu trŭn mơ̆ng sŏng laih, tañ mơtam ƀing ană plei thâo krăn kơ Yêsu. 55Ƀing gơñu đuaĭ hyu mă ƀing mơnuih duăm ruă pơ djŏp djang anih amăng tring anŭn laih anŭn ba rai ƀing ruă anŭn pơđih ƀơi khul kiao pơ anih pă ƀing gơñu hơmư̆ Yêsu dŏ yơh. 56Laih anŭn pơpă Yêsu nao, anŭn jing amăng plei pla, plei pơnăng ƀôdah amăng plei pla jum dar, ƀing gơñu pơđih ƀing mơnuih duăm ruă amăng khul anih sĭ mơnia. Ƀing gơñu kwưh rơkâo kơ Yêsu kiăng kơ ruaih djơ̆ jăh ao Ñu đôč laih anŭn abih bang ƀing hlơi pô ruaih djơ̆ Ñu le̱ng kơ suaih hĭ soh sel.