24

Đức Chúa Jêsus phán về sự thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, và sự Chúa đến

(Mac 13:1-37; Lu 21:5-33; 17:26-30; 34-36)

1 Khi Đức Chúa Jêsus ra khỏi đền thờ, đương đi, thì môn đồ đến gần để chỉ cho Ngài xem các nhà thuộc về đền thờ. 2 Ngài phán rằng: Các ngươi có thấy mọi điều đó chăng? Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đây sẽ không còn một hòn đá nào chồng trên một hòn khác mà không bị đổ xuống.
3 Ngài đương ngồi trên núi Ô-li-ve, môn đồ tới riêng cùng Ngài, và nói rằng: Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó sẽ xảy ra? Và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến và tận thế. 4 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy giữ, kẻo có kẻ dỗ dành các ngươi. 5 Vì nhiều người sẽ mạo danh ta đến mà nói rằng: Ta là Đấng Christ; và sẽ dỗ dành nhiều người. 6 Các ngươi sẽ nghe nói về giặc và tiếng đồn về giặc: Hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến; song chưa là cuối cùng đâu. 7 Dân nầy sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói kém và động đất. 8 Song mọi điều đó chỉ là đầu sự tai hại. 9 Bấy giờ, người ta sẽ nộp các ngươi trong sự hoạn nạn và giết đi; các ngươi sẽ bị mọi dân ghen ghét vì danh ta. 10 Khi ấy cũng có nhiều kẻ sẽ sa vào chước cám dỗ, phản nghịch nhau, và ghen ghét nhau. 11 Nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên và dỗ dành lắm kẻ. 12 Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều, thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội lần. 13 Nhưng kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng, thì sẽ được cứu. 14 Tin lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.
15 Khi các ngươi sẽ thấy sự gớm ghiếc tàn nát lập ra trong nơi thánh, mà đấng tiên tri Đa-ni-ên đã nói (ai đọc phải để ý), 16 thì ai ở trong xứ Giu-đê hãy trốn lên núi; 17 ai ở trên mái nhà, đừng xuống chuyên của cải trong nhà; 18 và ai ở ngoài ruộng, đừng trở về lấy áo mình. 19 Đang lúc đó, khốn khó thay cho đàn bà có mang, và đàn bà cho con bú! 20 Hãy cầu nguyện cho các ngươi khỏi trốn tránh nhằm lúc mùa đông hay là ngày Sa-bát; 21 vì lúc ấy sẽ có hoạn nạn lớn, đến nỗi từ khi mới có trời đất cho đến bây giờ chưa từng có như vậy, mà sau nầy cũng không hề có nữa. 22 Nếu những ngày ấy không giảm bớt, thì chẳng có một người nào được cứu; song vì cớ các người được chọn, thì những ngày ấy sẽ giảm bớt.
23 Khi ấy, nếu có ai nói với các ngươi rằng: Kìa, Đấng Christ ở đây, hay là: Ở đó, thì đừng tin. 24 Vì nhiều christ giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ, nếu có thể được thì họ cũng đến dỗ dành chính những người được chọn. 25 Nầy, ta đã bảo trước cho các ngươi. 26 Vậy nếu người ta nói với các ngươi rằng: Nầy, Ngài ở trong đồng vắng, thì đừng đi đến; nầy, Ngài ở trong nhà, thì đừng tin. 27 Vì như chớp phát ra từ phương đông, nháng đến phương tây, thì sự Con người đến sẽ cũng thể ấy.
28 Nơi nào có xác chết, thì những chim ó sẽ nhóm tại đó.
29 Sự tai nạn của những ngày đó vừa mới qua, thì mặt trời liền tối tăm, mặt trăng không sáng, các ngôi sao từ trên trời sa xuống, và thế lực của các từng trời rúng động. 30 Khi ấy, điềm Con người sẽ hiện ra ở trên trời, mọi dân tộc dưới đất sẽ đấm ngực, và thấy Con người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà xuống. 31 Ngài sẽ sai thiên sứ mình dùng tiếng kèn rất lớn mà nhóm lại những kẻ đã được lựa chọn của Ngài ở khắp bốn phương, từ cuối phương trời nầy cho đến tận phương kia.
32 Hãy nghe lời ví dụ về cây vả, vừa lúc nhành non, lá mới đâm, thì các ngươi biết mùa hạ gần tới. 33 Cũng vậy, khi các ngươi thấy mọi điều ấy, khá biết rằng Con người gần đến, Ngài đương ở trước cửa. 34 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, dòng dõi nầy chẳng qua trước khi mọi điều kia chưa xảy đến. 35 Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi.
36 Về ngày và giờ đó, chẳng có ai biết chi cả, thiên sứ trên trời hay là Con cũng vậy, song chỉ một mình Cha biết mà thôi. 37 Trong đời Nô-ê thể nào, khi Con người đến cũng thể ấy. 38 Vì trong những ngày trước nước lụt, người ta ăn, uống, cưới, gả như thường cho đến ngày Nô-ê vào tàu, --- 39 và người ta không ngờ chi hết cho đến khi nước lụt tới mà đùa đem đi hết thảy, --- khi Con người đến cũng như vậy. 40 Lúc ấy, sẽ có hai người nam ở trong một đồng ruộng, một người được đem đi, còn một người bị để lại; 41 và có hai người nữ đương xay cối, một người được đem đi, còn một người bị để lại. 42 Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào Chúa mình sẽ đến.
43 Hãy biết rõ, nếu người chủ nhà đã hay canh nào kẻ trộm sẽ đến, thì tỉnh thức, không để cho đào ngạch nhà mình. 44 Vậy thì các ngươi cũng hãy chực cho sẵn, vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ. 45 Ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan, mà người chủ đặt cai trị đầy tớ mình, đặng cho đồ ăn đúng giờ? 46 Phước cho đầy tớ đó, khi chủ đến thấy làm như vậy! 47 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, chủ sẽ đặt kẻ ấy coi sóc cả gia tài mình. 48 Nếu, trái lại, là một đầy tớ xấu, nó nghĩ thầm rằng: Chủ ta đến chậm, 49 bèn đánh kẻ cùng làm việc với mình, và ăn uống với phường say rượu, 50 thì chủ nó sẽ đến trong ngày nó không ngờ và giờ nó không biết. 51 Chủ sẽ đánh xé xương và định phần nó đồng với kẻ giả hình. Đó là nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng.

24

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Kơ Tơlơi Răm Rai Sang Yang Ơi Adai

(Markôs 13:1, 2; Luk 21:5, 6)

1Yêsu tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng Sang Yang Ơi Adai laih anŭn tơdang Ñu hlak rơbat nao, ƀing ding kơna Ñu rai jĕ ră ruai kơčrâo kơ Ñu kơ hơdôm anih wăl tơdron hiam klă Sang Yang anŭn. 2Yêsu laĭ glaĭ, “Ơ, ƀing gih ƀuh abih bang anih Sang Yang anŭn jing hiam yơh. Samơ̆ Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, tơdơi adih ƀing rŏh ayăt či pơrai hĭ tơl ƀu či hơmâo ôh sa boh pơtâo anai dŏ ƀơi ngŏ boh pơtâo pơkŏn; rĭm boh pơtâo ƀing rŏh ayăt či pơglưh pơčah hĭ abih bang yơh.”

Gru Laĭ Pơthâo Kơ Hrơi Yêsu Trŭn Rai

(Markôs 13:3-13; Luk 21:7-19)

3Tơdơi kơ anŭn ƀiă, tơdang Yêsu hlak dŏ be̱r ƀơi bŏl čư̆ Ôliwơ, ƀing ding kơna rai hơjăn pơ Yêsu hăng tơña tui anai, “Rơkâo kơ Ih ruai brơi kơ ƀing gơmơi thâo bĕ: Hơbĭn tơlơi răm rai anŭn či truh lĕ? Laih anŭn hơget či jing gru kơnăl laĭ pơthâo kơ hrơi Ih či trŭn rai laih anŭn kơ hrơi đŭt lŏn tơnah lĕ?”
4Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Răng bĕ, anăm brơi kơ arăng pơƀlŏr hĭ ƀing gih ôh. 5Kâo laĭ tui anŭn yuakơ či hơmâo lu mơnuih pơƀlŏr mă amăng anăn Kâo hăng laĭ tui anai, ‘Kâo yơh jing Pô Messiah!’ Tui anŭn, ƀing gơñu či pơƀlŏr hĭ lu mơnuih biă mă yơh. 6Ƀing gih či hơmư̆ dơnai pơblah pơ anih jĕ laih anŭn tơlơi hing hyu kơ tơlơi pơblah mơ̆ng anih ataih, samơ̆ ƀing gih anăm huĭ bra̱l ôh. Hơdôm tơlơi anŭn khŏm či truh yơh, samơ̆ tơlơi anŭn ƀu pơrơđah kơ hrơi đŭt lŏn tơnah či truh mơtam ôh. 7Kơnung djuai anai či tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng kơnung djuai pơkŏn laih anŭn lŏn čar anai či tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng lŏn čar adih yơh. Amăng abih bang lŏn tơnah ăt či hơmâo tơlơi ư̆ rơpa laih anŭn tơlơi pơpư̆ pơgơi lŏn tơnah mơ̆n. 8Samơ̆ abih bang tơlơi truh anŭn jing blung hlâo kơ tơlơi gleh tơnap đôč hrup hăng đah kơmơi čơdơ̆ng phŭn ruă nuă kơ tơlơi tơkeng ană ñu yơh.
9“Giŏng anŭn, ƀing rŏh ayăt gih či mă jao hĭ đơđa amăng ƀing gih kiăng kơ arăng ngă sat pơtơnap laih anŭn či pơdjai lui hĭ đơđa. Ƀing mơnuih lu mơ̆ng djŏp djang lŏn čar či pơrơmut kơ ƀing gih yơh yuakơ ƀing gih đuaĭ tui Kâo. 10Ăt či hơmâo lu mơnuih hơngah lui hĭ tơlơi đaŏ gơñu ƀơi mông anŭn laih anŭn ƀing gơñu či pơblư̆ hĭ tơdruă hăng pơrơmut kơ tơdruă yơh. 11Hơmâo lu ƀing pô pơala ƀlŏr či pơƀuh rai kiăng kơ pơƀlŏr hĭ lu mơnuih. 12Tơlơi sat ƀai yơh či pơlar hyu lu jai yơh; tui anŭn lu mơnuih či lui hĭ tơlơi khăp kiăng kơ Ơi Adai laih anŭn kơ mơnuih pơkŏn yơh. 13Samơ̆ hlơi pô gir run tơl truh hrơi đŭt lŏn tơnah, ñu anŭn či klaih yơh. 14Giŏng anŭn, Tơlơi Pơthâo Hiam kơ mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai arăng či hyu pơtô pơblang pơ djŏp djang lŏn tơnah kiăng kơ abih bang mơnuih mơnam dưi hơmư̆ Tơlơi Pơthâo Hiam anŭn; hlak anŭn rơnŭk đŭt lŏn tơnah či truh yơh.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Kơ Tơlơi Răm Rai Plei Prŏng Yerusalaim

(Markôs 13:14-23; Luk 21:20-24)

15Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Ƀing gih či ƀuh ‘gơnam hơƀak drak pơjing rai tơlơi grĭ grañ’ či dŏ amăng anih rơgoh hiam Sang Yang. Tơlơi truh anŭn pô pơala Daniêl hơmâo laĭ lui hlâo laih.” Hlơi pô đŏk tơlơi laĭ lui hlâo anŭn, brơi kơ ñu anŭn thâo hluh bĕ. 16Tơdang hơmâo tơlơi truh tui anŭn, hlơi pô dŏ amăng kwar Yudea, brơi kơ ñu đuaĭ kơdŏp bĕ pơ čư̆ čan. 17Hlơi pô dŏ pơdơi gah rơngiao sang, anăm mŭt mă tơbiă ôh dram gơnam ñu amăng sang hlâo kơ ñu đuaĭ kơdŏp. 18Hlơi pô dŏ pơ amăng đang hơma, anăm wơ̆t glaĭ mă ao jao ñu ôh hlâo kơ ñu đuaĭ kơdŏp. 19Amăng hơdôm hrơi anŭn či hơmâo tơlơi tơnap tap biă mă yơh kơ ƀing đah kơmơi dŏ pi kian laih anŭn kơ ƀing đah kơmơi dŏ brơi ană mĕm. 20Iâu laĭ kơ Ơi Adai bĕ, kiăng kơ ƀing gih ƀu đuaĭ kơdŏp djơ̆ amăng bơyan puih ƀôdah amăng hrơi Saƀat ôh. 21Kâo laĭ tui anŭn yuakơ čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi Ơi Adai hrih pơjing kơ lŏn tơnah hlŏng truh kơ ră anai aka ƀu hơmâo djơ̆ ôh hrup hăng tơlơi gleh tơnap prŏng prin biă mă anŭn. Laih anŭn dơ̆ng, ăt ƀu či hơmâo lơi tơdơi kơ anai. 22Samơ̆ Ơi Adai hơmâo pơtrŭn hĭ laih hơdôm hrơi gleh tơnap anŭn; tơdah Ñu aka ƀu ngă ôh kơ tơlơi anŭn, sĭt ƀu či hơmâo hlơi pô ôh dŏ so̱t. Ơi Adai pơtrŭn hĭ laih hơdôm hrơi anŭn yuakơ Ñu pap kơ ƀing mơnuih Ñu hơmâo ruah mă laih yơh.
23“Amăng hrơi mông anŭn tơdah hlơi pô laĭ hăng ƀing gih, ‘Anai nê, anai jing Pô Messiah,’ ƀôdah ‘Adih dih, Ñu pơ anŭn,’ sĭt anăm đaŏ kơ tơlơi anŭn ôh. 24Kâo laĭ tui anŭn yuakơ hơmâo lu ƀing Messiah ƀlŏr laih anŭn pô pơala ƀlŏr či pơƀuh rai ngă lu tơlơi gru kơnăl yom pơphan hăng bruă mơsêh mơyang, kiăng kơ pơƀlŏr hĭ abih bang mơnuih; tơdah dưi, ƀing gơñu ăt pơƀlŏr hĭ wơ̆t hăng ƀing Ơi Adai hơmâo ruah laih mơ̆n. 25Kơčăng bĕ kơ hơdôm tơlơi Kâo hơmâo ruai pơthâo laih kơ ƀing gih hlâo kơ hơdôm tơlơi anŭn truh.”
26“Tui anŭn, tơdah hlơi pô laĭ kơ ƀing gih tui anai, ‘Adih dih, Pô Messiah pơ tơdron ha̱r,’ anăm nao tui ôh. Tơdah hlơi pô laĭ tui anai dơ̆ng, ‘Lăng anai, Pô Messiah dŏ kơdŏp amăng sang,’ ăt anăm đaŏ tui ôh. 27Kâo laĭ tui anŭn yuakơ hrơi Kâo, jing Ană Mơnuih, či rai hrup hăng kơmlă jă̱ ƀlĭp ƀlăp amăng adai adih čơdơ̆ng mơ̆ng adai gah ngŏ̱ truh pơ adai yŭ̱ yơh.”
28Yêsu laĭ dơ̆ng hăng tơlơi pơrơtưh tui anai, “Pơpă hơmâo drơi djai, pơ anŭn yơh khul čim grư̆ či pơƀut glaĭ.”

Yêsu, Jing Ană Mơnuih, Či Trŭn Rai Dơ̆ng

(Markôs 13:24-27; Luk 21:25-28)

29Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Blĭp blăp tơdơi kơ hrơi gleh tơnap anŭn rơgao hĭ,
  “ ‘Yang hrơi či kơnăm hĭ mơtam
   laih anŭn yang blan ƀu či rơđah dơ̆ng tah,
  khul pơtŭ či lê̆ trŭn mơ̆ng adai
   laih anŭn Ơi Adai či ngă pơpư̆ pơgơi abih bang pul bơngač amăng adai rơngit yơh.’
30“Giŏng anŭn, gru kơnăl pơrơđah kơ tơlơi Ană Mơnuih hlak trŭn rai či pơƀuh rai hăng adai adih, laih anŭn abih bang kơnung djuai ƀơi lŏn tơnah anai či čŏk hia huĭ hyưt yơh tơdang ƀing gơñu ƀuh Ană Mơnuih trŭn rai ƀơi kơthul hiăng adai hăng tơlơi dưi mơyang laih anŭn tơlơi ang yang prŏng biă mă yơh. 31Ñu či pơkiaŏ ƀing ling jang hiam Ñu ayŭp kraih tơdiăp laih anŭn nao pơ abih bang akiăng lŏn tơnah kiăng kơ iâu pơƀut glaĭ abih bang mơnuih Ơi Adai ruah laih mơ̆ng rơnuč lŏn tơnah anai truh pơ rơnuč lŏn tơnah adih yơh.”

Pơhơmutu Kơ Kơyâo Hra

(Markôs 13:28-31; Luk 21:29-33)

32Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Hơmư̆ bĕ tơlơi pơhơmutu kơ kơyâo hra anai pơtô kơ ƀing gih. Tơdang than kơyâo anŭn jing mơda hla phrâo čơnăt, ƀing gih thâo krăn bơyan phang jĕ či truh yơh. 33Kar hăng anŭn mơ̆n, tơdang ƀing gih ƀuh abih bang tơlơi truh anŭn, brơi kơ ƀing gih thâo krăn bĕ, hrơi anŭn jĕ či truh laih, Ană Mơnuih hlak dŏ prap pre laih ƀơi bah amăng. 34Kâo laĭ sĭt biă mă hăng ƀing gih, abih bang tơlơi Kâo laĭ anŭn či truh yơh hlâo kơ abih bang ƀing mơnuih hlak hơdip amăng rơnŭk ta anai či rơgao hĭ. 35Adai lŏn či rơgao hĭ, samơ̆ boh hiăp Kâo pơhiăp ƀu či rơgao hĭ ôh.”

Ƀu Hơmâo Hlơi Pô Thâo Hrơi Mông Yêsu, Jing Ană Mơnuih, Či Rai

(Markôs 13:32-37; Luk 17:26-30, 34-36)

36Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Kơ hrơi mông Ană Mơnuih trŭn rai pơ lŏn tơnah anai, sĭt ƀu hơmâo hlơi pô thâo ôh; ling jang hiam pơ adai adih wơ̆t hăng Ană Ơi Adai ăt ƀu thâo lơi, kơnơ̆ng hơjăn Ama Ñu đôč yơh thâo. 37Tơlơi Ană Mơnuih trŭn rai či hrup hăng tơlơi truh amăng rơnŭk Noah đưm đă yơh. 38Kâo laĭ tui anŭn yuakơ amăng rơnŭk anŭn hlâo kơ ia li̱ng lip truh, mơnuih mơnam ƀu kơčăng ôh samơ̆ ƀơ̆ng mơñum hăng pơdŏ rơkơi bơnai. Ƀing gơñu ngă nanao hrup hăng anŭn hlŏng truh kơ hrơi Noah mŭt amăng kŏmpăn ñu hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih. 39Ƀing gơñu ƀu thâo krăn ôh ia li̱ng jĕ truh, tơl hrơi ia li̱ng truh laih anŭn lip đung pơđuaĭ hĭ abih bang yơh. Hrơi Ană Mơnuih rai ăt či truh hrup hăng anŭn mơ̆n. 40Amăng hrơi mông anŭn, năng ai či hơmâo dua čô mơnuih đah rơkơi dŏ mă bruă amăng đang hơma, sa čô Ơi Adai či mă pơđuaĭ hĭ, sa čô či dŏ glaĭ yơh. 41Ƀôdah či hơmâo dua čô đah kơmơi dŏ tơ̆p pơdai hrŏm hơbĭt, sa čô Ơi Adai či mă pơđuaĭ hĭ, sa čô či dŏ glaĭ yơh.
42“Dŏ kơčăng bĕ, yuakơ ƀing gih ƀu thâo ôh hơbĭn hrơi Khua Yang gih či rai. 43Samơ̆ brơi kơ ƀing gih thâo hluh bĕ kơ tơlơi pơhơmutu anai: Tơdah pô sang thâo hơbĭn mơnuih klĕ dŏp či mŭt amăng mlam, ñu či dŏ kơčăng yơh, hăng ƀu brơi ôh mơnuih klĕ dŏp anŭn mŭt klĕ hĭ amăng sang ñu. 44Tui anŭn, brơi kơ ƀing gih prap pre bĕ, yuakơ Ană Mơnuih či rai amăng mông ƀing gih ƀu pơmĭn Ñu či truh ôh.”

Ding Kơna Ơi Adai Khŏm Tŏng Ten

(Luk 12:41-48)

45Yêsu pơtô hăng tơlơi pơhơmutu pơkŏn dơ̆ng tui anai, “Tui anŭn, hlơi pô jing khua ding kơna tŏng ten rơgơi lĕ? Ñu yơh jing pô khua ñu hơmâo jao brơi laih bruă kơ ñu wai lăng abih bang ƀing ding kơna pơkŏn amăng sang, kiăng kơ pơpha brơi gơnam ƀơ̆ng djơ̆ mông yơh. 46Sĭt mơyŭn hiam yơh kơ ding kơna anŭn, yuakơ tơdah khua ñu glaĭ ƀuh ñu ngă tŏng ten kar hăng tơlơi khua ñu pơtă laih. 47Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, khua ñu či jao brơi kơ ñu wai lăng abih bang dram gơnam kŏng ngăn amăng sang khua ñu yơh. 48Samơ̆ tơdah khua ding kơna anŭn jing pô sat ƀai, ñu či pơmĭn amăng jua pơmĭn ñu pô tui anai, ‘Khua kâo dŏ sui amơĭ kăh glaĭ.’ 49Laih anŭn ñu či čơdơ̆ng taih čŏm ƀing ding kơna pơkŏn mă bruă hrŏm hăng ñu laih anŭn ƀơ̆ng mơñum hăng mơnuih măt tơpai. 50Tơdang khua ñu či wơ̆t glaĭ amăng hrơi ñu ƀu răng, amăng mông ñu ƀu pơmĭn, 51khua ñu či pơkơhma̱l hĭ ñu kơtang amăng anih hrŏm hăng ƀing pơƀlŏr tŭ mă tơlơi pơkơhma̱l yơh. Pơ anih anŭn, ñu či čŏk hia hăng kĕ tơgơi yơh.”