27

1 Đến sáng mai, các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân hội nghị nghịch cùng Đức Chúa Jêsus để giết Ngài. 2 Khi đã trói Ngài rồi, họ đem nộp cho Phi-lát, là quan tổng đốc.

Giu-đa chết

(Cong 1:18,19)

3 Khi ấy, Giu-đa, là kẻ đã phản Ngài, thấy Ngài bị án, thì ăn năn, bèn đem ba chục miếng bạc trả cho các thầy tế lễ cả và các trưởng lão, 4 mà nói rằng: Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội! Song họ đáp rằng: Sự đó can gì đến chúng ta? Mặc kệ ngươi. 5 Giu-đa bèn ném bạc vào đền thờ, liền trở ra, đi thắt cổ. 6 Nhưng các thầy tế lễ cả lượm bạc và nói rằng: Không có phép để bạc nầy trong kho thánh, vì là giá của huyết. 7 Rồi họ bàn với nhau dùng bạc đó mua ruộng của kẻ làm đồ gốm để chôn những khách lạ. 8 Nhân đó, ruộng ấy đến nay còn gọi là “ruộng huyết.” 9 Bấy giờ được ứng nghiệm lời đấng tiên tri Giê-rê-mi đã nói rằng: Họ lấy ba chục bạc, là giá của Đấng đã bị định bởi con cái Y-sơ-ra-ên, 10 và đưa bạc ấy mà mua ruộng của kẻ làm đồ gốm y như lời Chúa đã truyền cho ta.

Đức Chúa Jêsus trước mặt Phi-lát

(Mac 15:2-5; Lu 23:3-5; Gi 18:33-38)

11 Đức Chúa Jêsus đứng trước quan tổng đốc, quan hỏi rằng: Có phải ngươi là Vua của dân Giu-đa không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời. 12 Trong lúc các thầy tế lễ cả và các trưởng lão kiện Ngài, Ngài không đối đáp gì hết. 13 Phi-lát bèn nói cùng Ngài rằng: Họ có nhiều điều làm chứng kiện ngươi, ngươi há không nghe đến sao? 14 Song Đức Chúa Jêsus không đáp lại một lời gì, đến nỗi làm cho quan tổng đốc lấy làm lạ lắm.
15 Phàm đến ngày lễ Vượt qua, quan tổng đốc thường có lệ tha một tên tù tùy ý dân muốn. 16 Đang lúc ấy, có một tên phạm nổi tiếng, tên là Ba-ra-ba. 17 Khi chúng đã nhóm lại, thì Phi-lát hỏi rằng: Các ngươi muốn ta tha người nào, Ba-ra-ba hay là Jêsus gọi là Christ? 18 Vì quan ấy biết bởi lòng ghen ghét nên chúng đã nộp Ngài. --- 19 Quan tổng đốc đương ngồi trên tòa án, vợ người sai thưa cùng người rằng: Đừng làm gì đến người công bình đó; vì hôm nay tôi đã bởi cớ người mà đau đớn nhiều trong chiêm bao. --- 20 Song các thầy tế lễ cả và các trưởng lão dỗ chúng hãy xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Jêsus. 21 Quan tổng đốc cất tiếng hỏi rằng: Trong hai người nầy, các ngươi muốn ta tha ai? Chúng thưa rằng: Ba-ra-ba. 22 Phi-lát nói rằng: Vậy, còn Jêsus gọi là Christ, thì ta sẽ xử thế nào? Chúng đều trả lời rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự! 23 Quan hỏi: Song người nầy đã làm việc dữ gì? Chúng lại kêu la lớn hơn rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự! 24 Phi-lát thấy mình không thắng nổi chi hết, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi. 25 Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi! 26 Phi-lát bèn tha tên Ba-ra-ba cho chúng; và khiến đánh đòn Đức Chúa Jêsus, đoạn giao Ngài ra để đóng đinh trên cây thập tự.
27 Lính của quan tổng đốc bèn đem Đức Chúa Jêsus vào công đường, và nhóm cả cơ binh vây lấy Ngài. 28 Họ cởi áo Ngài ra, lấy áo điều mà khoác cho Ngài. 29 Đoạn, họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu, và để một cây sậy trong tay hữu Ngài; rồi quì xuống trước mặt Ngài mà nhạo báng rằng: Lạy Vua của dân Giu-đa! 30 Họ nhổ trên Ngài và lấy cây sậy đánh đầu Ngài. 31 Khi đã nhạo báng Ngài rồi, thì họ cởi áo điều ra mà mặc áo của Ngài lại, rồi đem Ngài đi đóng đinh trên cây thập tự.

Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên cây thập tự

(Mac 15:21-32; Lu 23:26-43; Gi 19:17-27)

32 Khi họ đi ra, gặp một người ở thành Sy-ren tên là Si-môn; thì bắt người vác cây thập tự của Đức Chúa Jêsus. 33 Đã đi tới một chỗ gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ cái Sọ, 34 họ cho Ngài uống rượu trộn với mật đắng; song Ngài nếm, thì không chịu uống. 35 Họ đã đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi, thì bắt thăm mà chia nhau áo xống của Ngài. 36 Rồi họ ngồi đó mà canh giữ Ngài. 37 Phía trên đầu Ngài họ để cái bảng đề chữ, chỉ về án Ngài, rằng: Người nầy là Jêsus, Vua dân Giu-đa.
38 Cũng lúc đó, họ đóng đinh hai tên trộm cướp với Ngài, một tên ở cây thập tự bên hữu, một tên ở cây thập tự bên tả. 39 Những kẻ đi ngang qua đó chê cười Ngài, lắc đầu, 40 mà nói rằng: Ngươi là kẻ phá đền thờ và dựng lại trong ba ngày, hãy cứu lấy mình đi! Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi cây thập tự! 41 Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão cũng nhạo Ngài rằng: 42 Nó đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được. Nếu phải Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự đi, thì chúng ta mới tin. 43 Nó nhờ cậy Đức Chúa Trời; nếu Đức Chúa Trời yêu nó thì bây giờ Ngài phải giải cứu cho, vì nó đã nói rằng: Ta là Con Đức Chúa Trời. 44 Hai tên trộm cướp bị đóng đinh trên cây thập tự với Ngài cũng nhiếc móc Ngài như vậy.
45 Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. 46 Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li, lam-ma-sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi? 47 Có mấy người đứng đó, nghe kêu, thì nói rằng: Nó kêu Ê-li. 48 Liền có một người trong bọn họ chạy lấy một miếng bông đá, và thấm đầy giấm, để trên đầu cây sậy mà đưa cho Ngài uống. 49 Nhưng kẻ khác thì lại nói rằng: Hãy để vậy, coi thử có Ê-li đến giải cứu nó chăng. 50 Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.
51 Và nầy, cái màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên chí dưới, đất thì rúng động, đá lớn bể ra, 52 mồ mả mở ra, và nhiều thây của các thánh qua đời được sống lại. 53 Sau khi Đức Chúa Jêsus đã sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy. 54 Thầy đội và những lính cùng với người canh giữ Đức Chúa Jêsus, thấy đất rúng động và những điều xảy đến, thì sợ hãi lắm, mà nói rằng: Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời. 55 Vả, có nhiều người đàn bà đứng coi ở đàng xa, là người đã đi theo Đức Chúa Jêsus từ xứ Ga-li-lê để hầu việc Ngài. 56 Trong những đàn bà đó có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri, mẹ của Gia-cơ và Giô-sép, và mẹ hai con trai của Xê-bê-đê.

Sự chôn Chúa. – Lính canh mộ

(Mac 15:42-47; Lu 23:50-56; Gi 19:38-42)

57 Đến chiều tối, có một người giàu, ở thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-sép, chính là một môn đồ của Đức Chúa Jêsus, 58 đến nơi Phi-lát mà xin xác Đức Chúa Jêsus. Phi-lát bèn truyền cho. 59 Giô-sép lấy xác Ngài bọc trong tấm vải liệm trắng, 60 và đưa để trong một cái huyệt mới mà người đã khiến đục cho mình trong hòn đá; đoạn, lăn một hòn đá lớn đến trước cửa mồ, rồi đi. 61 Có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác ở đó, ngồi đối ngang huyệt.
62 Đến ngày mai (là ngày sau ngày sắm sửa), các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si cùng nhau đến Phi-lát, 63 mà nói rằng: Thưa chúa, chúng tôi nhớ người gian dối nầy, khi còn sống, có nói rằng: Khỏi ba ngày thì ta sẽ sống lại. 64 Vậy, xin hãy cắt người canh mả cẩn thận cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đồ nó đến lấy trộm xác đi, rồi nói với dân chúng rằng: Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Sự gian dối sau đó sẽ tệ hơn sự gian dối trước. 65 Phi-lát nói với họ rằng: Các ngươi có lính canh; hãy đi canh giữ theo ý các ngươi. 66 Vậy, họ đi, niêm phong mả Ngài lại, cắt lính canh giữ, lấy làm chắc chắn lắm.

27

Yê-su Tayứng Yáng Moat Phi-lat

(Mac 15:1; Luca 23:1-2; Yang 18:28-32)

1Toâq poang tarưp parnỡ, mbỡiq rưm-rưm, nheq tữh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, cớp nheq máh cũai sốt nheq sâu, alới sarhống cớp chuaq ngê ễ cachĩt Yê-su. 2Alới chŏ́q Yê-su cớp dững án pỡ atĩ Phi-lat cũai Rô-ma, án ca sốt tâng cruang ki.

Yuda Yác, Án Chŏ́q Panũar Tâng Tacong Án Bữm

(Ranáq Táq 1:18-19)

3Tữ Yuda, án ca khoiq chếq Yê-su, sâng cũai sốt pai: Yê-su cóq cuchĩt, ngkíq án sâng ngua lứq cỗ tễ ranáq án khoiq táq. Chơ án dững culáh loah pái chít ŏ́c práq pỡ máh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, cớp máh cũai sốt nheq sâu. 4Án pai neq: “Cứq khoiq táq lôih yuaq cứq khoiq chếq manoaq ca tỡ bữn lôih ntrớu.”
 Ma alới ta‑ỡi Yuda neq: “Ŏ́c ki tỡ bữn ntrớu cớp hếq. Tam mới!”
5Ngkíq Yuda voang táh práq ki tâng Dống Sang Toâr. Chơ án loŏh yác, chŏ́q panũar cớp sarớt tacong bữm.
6Máh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, alới tỗiq ĩt práq ki, cớp alới pai neq: “Práq nâi la kia tễ aham cũai. Ngkíq puai phễp rit hái tỡ têq dŏq práq nâi tâng Dống Sang Toâr.”
7Chơ alới sarhống. Moâm ki alới chỡng muoi tâm cutễq toâq práq ki. Cutễq ki alới chỡng tễ cũai chiang táq adéh toâq cutễq tabát. Alới chỡng tâm cutễq ki ien tứp cũai tễ cruang canŏ́h ca cuchĩt pỡ ki. 8Ngkíq toau tangái nâi noau amứh cutễq ki la Tâm Cutễq Aham Cũai Cuchĩt. 9-10Ngkíq cỡt rapĩeiq máh santoiq Yê-ramia, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ, khoiq pai neq: “Noau ĩt pái chít ŏ́c práq cớp chỡng muoi tâm cutễq tễ cũai chiang táq adéh cutễq tabát ariang Ncháu cứq ớn cứq táq. Pái chít ŏ́c práq ki la kia cũai I-sarel anoat yỗn rangứh án.”

Phi-lat Blớh Yê-su

(Mac 15:2-5; Luca 23:3-5; Yang 18:33-38)

11Yê-su ỡt tayứng yáng moat Phi-lat la cũai Rô-ma, sốt tâng cruang ki. Phi-lat blớh Yê-su neq: “Mới la lứq puo tỗp I-sarel tỡ?”
 Yê-su ta‑ỡi neq: “Lứq pĩeiq mới pai.”
12Ngkíq máh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, cớp cũai sốt nheq sâu, alới cauq Yê-su. Ma Yê-su tỡ bữn ta‑ỡi ntrớu. 13Chơ Phi-lat blớh ễn: “Mới sâng ma tỡ bữn noau cauq mới sa‑ữi ramứh?”
14Ma Yê-su tỡ bữn ta‑ỡi muoi ŏ́c ntrớu. Ngkíq cũai sốt ki sâng dớt lứq.

Noau Rưoh Yê-su Cóq Chĩuq Cuchĩt

(Mac 15:6-15; Luca 23:13-25; Yang 18:39-19:16)

15Toâq tangái cũai I-sarel rôm cha bũi sanhữ Tangái Loŏh, alới bữn rit cũai sốt cruang ki acláh manoaq cũai tũ puai pahỡm cũai proai rưoh yoc ễ acláh. 16Bo ki bữn manoaq cũai tũ, ramứh Ba-raba. Dũ náq dáng nheq ramứh án. 17Ngkíq, bo cũai clứng ỡt rôm ngki, Phi-lat blớh alới neq: “Cũai aléq anhia yoc cứq acláh yỗn anhia, Ba-raba tỡ la Yê-su, án ca noau dŏq Crĩt?”
18Phi-lat dáng samoât lứq máh cũai sốt ki ũan lứq cớp Yê-su yuaq cũai proai alới yoc ễ puai Yê-su. Yuaq ngkíq alới dững Yê-su toâq pỡ án.
19Bo Phi-lat tacu tâng ntốq án sữq, lacuoi án cơiq parnai pỡ án neq: “Mới chỗi táq ntrớu chóq cũai ki, yuaq án tỡ bữn táq lôih ntrớu. Tabữ mahái cứq rláu mpáu tễ án, chơ tangái nâi cứq sâng croŏq lứq.”
20Ma nheq cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, cớp máh cũai sốt nheq sâu, alới ớn máh cũai clứng ki sễq tễ sốt yỗn acláh Ba-raba, ma cachĩt Yê-su. 21Án ca sốt ki blớh cũai clứng neq: “Tễ bar náq cũai nâi, anhia yoc cứq acláh noau?”
 Alới ta‑ỡi: “Ba-raba!”
22Phi-lat blớh ễn neq: “Khân ngkíq, ntrớu anhia ễq cứq táq chóq Yê-su, án ca noau dŏq Crĩt?”
 Alới ta‑ỡi: “Téh án tâng aluang sangcáng!”
23Phi-lat blớh loah ễn: “Nŏ́q? Ntrớu án táq lôih chóq anhia?”
 Ma alới ta‑ỡi casang hỡn tễ nhũang ễn neq: “Téh án tâng aluang sangcáng!”
24Tữ Phi-lat dáng án tỡ têq táq ntrớu dŏq chuai Yê-su, cớp án ngcŏh cũai clứng ki táq choac lứq ễn, ngkíq án ĩt dỡq, chơ án ariau atĩ yáng moat alới, cớp án pai neq: “Nâi la cứq táq tếc, cứq tỡ bữn tôt ntrớu tễ cũai nâi cuchĩt. Ŏ́c ki tam anhia.”
25Nheq tữh cũai clứng ki ta‑ỡi loah neq: “Tôt cũai ki cuchĩt sễq yỗn toâq pỡ hếq cớp toâq pỡ con acái hếq hỡ.”
26Chơ Phi-lat acláh Ba-raba yỗn cũai clứng ki. Ma Yê-su, Phi-lat yỗn noau proaih án. Vớt ki án chiau Yê-su yỗn alới dững téh án tâng aluang sangcáng.

Tahan Ayê Ra‑ac Yê-su

(Mac 15:16-20; Yang 19:2-3)

27Chơ, máh tahan Phi-lat dững Yê-su mut tâng dống noau dốq sữq cũai. Ntốq ki bữn tahan clứng lứq toâq ỡt pễr Yê-su. 28Alới tũot tampâc Yê-su, cớp alới asớp án au tuar santứm ễng. 29Alới táq carvang sarlia apưng tâng plỡ án. Cớp alới yỗn án yống ralỡng yoah atĩ atoam. Moâm ki alới sacốh racớl yáng moat án cớp ayê ra‑ac án, pai neq: “Cucốh noau casai puo I-sarel!”
30Alới cuchóh tâng tỗ Yê-su, cớp alới ĩt ralỡng toân tâng plỡ án. 31Moâm alới ayê ra‑ac án, chơ alới tũot au tuar cớp asớp loah tampâc án bữm. Chơ alới dững aloŏh án dŏq téh án tâng aluang sangcáng.

Noau Téh Yê-su Tâng Aluang Sangcáng

(Mac 15:21-32; Luca 23:26-43; Yang 19:17-27)

32Tữ alới loŏh vớt tễ vil, alới ramóh manoaq samiang tâng rana, ramứh Si-môn. Án la cũai tễ cruang Si-rên. Alới ễp án dỗl aluang sangcáng Yê-su. 33Alới toâq pỡ ntốq ramứh Cô-cô-tha. Santoiq nâi parlong loah la ‘Ntốq Nghang Cantar Plỡ’. 34Ỡt ntốq ki noau avơi yỗn Yê-su nguaiq blŏ́ng carchốc cớp crơng ntáng. Yê-su yễl, ma án tỡ bữn nguaiq.
35Chơ alới téh Yê-su tâng aluang sangcáng. Cớp alới tampễq tampâc án na séng anhúq, aléq bữn la thỗi. 36Moâm ki alới tacu kĩaq Yê-su. 37Yoah pỡng plỡ Yê-su alới dŏq muoi khlễc pian; cớp alới chĩc chữq neq: CŨAI NÂI LA YÊ-SU. ÁN LA PUO CŨAI I-SAREL. 38Noau téh bar náq cũai savễng cheq Yê-su tê, manoaq coah atoam, manoaq coah avêr.
39Máh cũai pỡq pha bân ki, alới culữt-culiau ayê ra‑ac Yê-su. 40Alới pai neq: “Mới nâi ơiq ca pai ễ talốh dống sang Yiang Sursĩ. Chơ mới táq loah pái tangái la moâm toâp. Âu sanua mới chuai amoong loah tỗ mới bữm. Khân mới lứq Con Yiang Sursĩ, ki mới sễng tễ aluang sangcáng ki.”
41Cớp máh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ, máh cũai yống rit, cớp máh cũai sốt nheq sâu, tỗp alới ayê ra‑ac Yê-su tê. 42Alới pai neq: “Cũai canŏ́h têq án chuai amoong, ma tỗ án bữm, tỡ hữm têq án chuai. Khân án lứq puo cũai I-sarel, yỗn án sễng bữm tễ aluang sangcáng ki. Khân ngkíq, hái lứq sa‑âm án tê. 43Án sa‑âm Yiang Sursĩ, cớp án pai án la Con Yiang Sursĩ. Khân lứq ngkíq, yỗn Yiang Sursĩ chuai amoong án sanua.”
44Cớp alới bar náq savễng ca noau téh tâng aluang sangcáng muoi prớh cớp Yê-su, alới ayê ra‑ac Yê-su tê.

Bo Yê-su Cheq Ễ Cuchĩt

(Mac 15:33-41; Luca 23:44-49; Yang 19:28-30)

45Tễ moat mandang toâng toau toâq moat mandang priang, cỡt canám nheq tâng cruang ki. 46Toâq mandang priang Yê-su arô casang lứq neq: “Ê-li, Ê-li, lama-sabac-tani?” Santoiq nâi parlong loah la: “Yiang Sursĩ cứq ơi! Yiang Sursĩ cứq ơi! Nŏ́q mới táh chíq cứq?”
47Toâq cũai tayứng cheq ki sâng Yê-su arô, alới pai neq: “Án arô Ê-li!”
48Bữn manoaq tễ alới ki lúh ĩt muoi cốc aroâiq. Án alốq aroâiq ki tâng blŏ́ng nhŏ́q, cớp án chŏ́q aroâiq ki tâng dũi. Chơ án avơi yỗn Yê-su yáp. 49Ma cũai canŏ́h pai neq: “Hái acoan voai. Hái nhêng Ê-li toâq chuai án, ma tỡ bữn!”
50Yê-su u‑ỗi casang lứq ễn, chơ án ta-ŏh rangứh.
51Bo ki toâp aroâiq noau yoang tâng Dống Sang Toâr cỡt raháq tễ pỡng toâq pưn, cỡt bar sarễc. Cutễq cacưt, cớp máh tamáu cỡt pacháh. 52Ping cumuiq riang noau pớh bữm, yỗn sa‑ữi náq cũai ca puai ngê Yiang Sursĩ ca khoiq cuchĩt bữn tamoong loah. 53Vớt Yê-su tamoong loah, máh cũai ca khoiq cuchĩt, alới loŏh tễ ping, cớp alới mut tâng vil Yaru-salem. Tâng vil ki bữn clứng cũai hữm alới.
54Bo ki bữn manoaq sốt muoi culám tahan, án ỡt kĩaq Yê-su. Nheq náq alới hữm cutễq cacưt, cớp alới hữm máh ramứh canŏ́h hỡ. Ngkíq alới sâng ngcŏh lứq, cớp alới pai neq: “Lứq samoât cũai nâi la Con Yiang Sursĩ!”
55Bữn sa‑ữi náq mansễm ỡt yơng tapoang nhêng chu Yê-su. Alới ki khoiq puai Yê-su tễ cruang Cali-lê, cớp alới chứm siem án. 56Tâng tỗp mansễm ki bữn Mari tễ vil Mac-dala, Mari la mpiq Yacỡ cớp Yô-sê, cớp mpiq alới bar náq con samiang Sê-badê.

Noau Tứp Yê-su

(Mac 15:42-47; Luca 23:50-56; Yang 19:38-42)

57Toâq paloŏng nhứm-nhứm, bữn manoaq cũai sốc tễ vil Ari-mathê toâq. Ramứh án la Yô-sep. Án la cũai rien tễ Yê-su tê. 58Án toâq pỡ Phi-lat, cớp án sễq cumuiq Yê-su. Phi-lat ớn noau yỗn cumuiq Yê-su pỡ án. 59Ngkíq Yô-sep ĩt cumuiq Yê-su, cớp án som toâq aroâiq tamái cớp cloc o lứq. 60Chơ án dŏq cumuiq ki tâng ping tamái khong án; ping ki noau tốc tâng tamáu côl. Chơ án vih tamáu catáng chíq ngoah ping. Moâm ki án chu. 61Mari tễ vil Mac-dala, cớp Mari canŏ́h ễn, alới tacu tapoang nhêng chu ngoah ping.

Cũai Sốt Yỗn Tahan Kĩaq Ping Yê-su

62Máh tangái parnỡ la tangái ntun tỗp I-sarel thrũan táq lêq. Tangái ki máh cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ cớp máh cũai Pha-rasi, alới pỡq chu Phi-lat. 63Alới pai chóq Phi-lat neq: “Achuaih ơi! Hếq sanhữ bo cũai lauq ki noâng tamoong, án pai neq: ‘Cứq cuchĩt, ma vớt pái tangái cứq tamoong loah.’ 64Ngkíq, hếq sễq achuaih yỗn noau kĩaq carsĩat ping ki toau toâq tangái pái. Chơ tỗp rien tễ án tỡ têq pỡq ĩt tuoiq tỗ cumuiq ki. Khân alới bữn tuoiq, ki alới lứq atỡng cũai canŏ́h neq: ‘Yê-su cuchĩt, chơ án tamoong loah.’ Khân alới pai Yê-su tamoong loah, ŏ́c lauq ki ntâng hỡn tễ ŏ́c lauq noau pai án la Crĩt.”
65Chơ Phi-lat ta‑ỡi alới neq: “Anhia dững tahan pỡq kĩaq ping ki; tam rangứh anhia.”
66Ngkíq alới loŏh tễ ki. Chơ alới pỡq cloaih ngoah ping ki yỗn khâm lứq. Cớp alới ớn tahan kĩaq ping ki.