27

1 Đến sáng mai, các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân hội nghị nghịch cùng Đức Chúa Jêsus để giết Ngài. 2 Khi đã trói Ngài rồi, họ đem nộp cho Phi-lát, là quan tổng đốc.

Giu-đa chết

(Cong 1:18,19)

3 Khi ấy, Giu-đa, là kẻ đã phản Ngài, thấy Ngài bị án, thì ăn năn, bèn đem ba chục miếng bạc trả cho các thầy tế lễ cả và các trưởng lão, 4 mà nói rằng: Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội! Song họ đáp rằng: Sự đó can gì đến chúng ta? Mặc kệ ngươi. 5 Giu-đa bèn ném bạc vào đền thờ, liền trở ra, đi thắt cổ. 6 Nhưng các thầy tế lễ cả lượm bạc và nói rằng: Không có phép để bạc nầy trong kho thánh, vì là giá của huyết. 7 Rồi họ bàn với nhau dùng bạc đó mua ruộng của kẻ làm đồ gốm để chôn những khách lạ. 8 Nhân đó, ruộng ấy đến nay còn gọi là “ruộng huyết.” 9 Bấy giờ được ứng nghiệm lời đấng tiên tri Giê-rê-mi đã nói rằng: Họ lấy ba chục bạc, là giá của Đấng đã bị định bởi con cái Y-sơ-ra-ên, 10 và đưa bạc ấy mà mua ruộng của kẻ làm đồ gốm y như lời Chúa đã truyền cho ta.

Đức Chúa Jêsus trước mặt Phi-lát

(Mac 15:2-5; Lu 23:3-5; Gi 18:33-38)

11 Đức Chúa Jêsus đứng trước quan tổng đốc, quan hỏi rằng: Có phải ngươi là Vua của dân Giu-đa không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời. 12 Trong lúc các thầy tế lễ cả và các trưởng lão kiện Ngài, Ngài không đối đáp gì hết. 13 Phi-lát bèn nói cùng Ngài rằng: Họ có nhiều điều làm chứng kiện ngươi, ngươi há không nghe đến sao? 14 Song Đức Chúa Jêsus không đáp lại một lời gì, đến nỗi làm cho quan tổng đốc lấy làm lạ lắm.
15 Phàm đến ngày lễ Vượt qua, quan tổng đốc thường có lệ tha một tên tù tùy ý dân muốn. 16 Đang lúc ấy, có một tên phạm nổi tiếng, tên là Ba-ra-ba. 17 Khi chúng đã nhóm lại, thì Phi-lát hỏi rằng: Các ngươi muốn ta tha người nào, Ba-ra-ba hay là Jêsus gọi là Christ? 18 Vì quan ấy biết bởi lòng ghen ghét nên chúng đã nộp Ngài. --- 19 Quan tổng đốc đương ngồi trên tòa án, vợ người sai thưa cùng người rằng: Đừng làm gì đến người công bình đó; vì hôm nay tôi đã bởi cớ người mà đau đớn nhiều trong chiêm bao. --- 20 Song các thầy tế lễ cả và các trưởng lão dỗ chúng hãy xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Jêsus. 21 Quan tổng đốc cất tiếng hỏi rằng: Trong hai người nầy, các ngươi muốn ta tha ai? Chúng thưa rằng: Ba-ra-ba. 22 Phi-lát nói rằng: Vậy, còn Jêsus gọi là Christ, thì ta sẽ xử thế nào? Chúng đều trả lời rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự! 23 Quan hỏi: Song người nầy đã làm việc dữ gì? Chúng lại kêu la lớn hơn rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự! 24 Phi-lát thấy mình không thắng nổi chi hết, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi. 25 Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi! 26 Phi-lát bèn tha tên Ba-ra-ba cho chúng; và khiến đánh đòn Đức Chúa Jêsus, đoạn giao Ngài ra để đóng đinh trên cây thập tự.
27 Lính của quan tổng đốc bèn đem Đức Chúa Jêsus vào công đường, và nhóm cả cơ binh vây lấy Ngài. 28 Họ cởi áo Ngài ra, lấy áo điều mà khoác cho Ngài. 29 Đoạn, họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu, và để một cây sậy trong tay hữu Ngài; rồi quì xuống trước mặt Ngài mà nhạo báng rằng: Lạy Vua của dân Giu-đa! 30 Họ nhổ trên Ngài và lấy cây sậy đánh đầu Ngài. 31 Khi đã nhạo báng Ngài rồi, thì họ cởi áo điều ra mà mặc áo của Ngài lại, rồi đem Ngài đi đóng đinh trên cây thập tự.

Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên cây thập tự

(Mac 15:21-32; Lu 23:26-43; Gi 19:17-27)

32 Khi họ đi ra, gặp một người ở thành Sy-ren tên là Si-môn; thì bắt người vác cây thập tự của Đức Chúa Jêsus. 33 Đã đi tới một chỗ gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ cái Sọ, 34 họ cho Ngài uống rượu trộn với mật đắng; song Ngài nếm, thì không chịu uống. 35 Họ đã đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi, thì bắt thăm mà chia nhau áo xống của Ngài. 36 Rồi họ ngồi đó mà canh giữ Ngài. 37 Phía trên đầu Ngài họ để cái bảng đề chữ, chỉ về án Ngài, rằng: Người nầy là Jêsus, Vua dân Giu-đa.
38 Cũng lúc đó, họ đóng đinh hai tên trộm cướp với Ngài, một tên ở cây thập tự bên hữu, một tên ở cây thập tự bên tả. 39 Những kẻ đi ngang qua đó chê cười Ngài, lắc đầu, 40 mà nói rằng: Ngươi là kẻ phá đền thờ và dựng lại trong ba ngày, hãy cứu lấy mình đi! Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi cây thập tự! 41 Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão cũng nhạo Ngài rằng: 42 Nó đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được. Nếu phải Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự đi, thì chúng ta mới tin. 43 Nó nhờ cậy Đức Chúa Trời; nếu Đức Chúa Trời yêu nó thì bây giờ Ngài phải giải cứu cho, vì nó đã nói rằng: Ta là Con Đức Chúa Trời. 44 Hai tên trộm cướp bị đóng đinh trên cây thập tự với Ngài cũng nhiếc móc Ngài như vậy.
45 Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. 46 Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li, lam-ma-sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi? 47 Có mấy người đứng đó, nghe kêu, thì nói rằng: Nó kêu Ê-li. 48 Liền có một người trong bọn họ chạy lấy một miếng bông đá, và thấm đầy giấm, để trên đầu cây sậy mà đưa cho Ngài uống. 49 Nhưng kẻ khác thì lại nói rằng: Hãy để vậy, coi thử có Ê-li đến giải cứu nó chăng. 50 Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.
51 Và nầy, cái màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên chí dưới, đất thì rúng động, đá lớn bể ra, 52 mồ mả mở ra, và nhiều thây của các thánh qua đời được sống lại. 53 Sau khi Đức Chúa Jêsus đã sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy. 54 Thầy đội và những lính cùng với người canh giữ Đức Chúa Jêsus, thấy đất rúng động và những điều xảy đến, thì sợ hãi lắm, mà nói rằng: Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời. 55 Vả, có nhiều người đàn bà đứng coi ở đàng xa, là người đã đi theo Đức Chúa Jêsus từ xứ Ga-li-lê để hầu việc Ngài. 56 Trong những đàn bà đó có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri, mẹ của Gia-cơ và Giô-sép, và mẹ hai con trai của Xê-bê-đê.

Sự chôn Chúa. – Lính canh mộ

(Mac 15:42-47; Lu 23:50-56; Gi 19:38-42)

57 Đến chiều tối, có một người giàu, ở thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-sép, chính là một môn đồ của Đức Chúa Jêsus, 58 đến nơi Phi-lát mà xin xác Đức Chúa Jêsus. Phi-lát bèn truyền cho. 59 Giô-sép lấy xác Ngài bọc trong tấm vải liệm trắng, 60 và đưa để trong một cái huyệt mới mà người đã khiến đục cho mình trong hòn đá; đoạn, lăn một hòn đá lớn đến trước cửa mồ, rồi đi. 61 Có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác ở đó, ngồi đối ngang huyệt.
62 Đến ngày mai (là ngày sau ngày sắm sửa), các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si cùng nhau đến Phi-lát, 63 mà nói rằng: Thưa chúa, chúng tôi nhớ người gian dối nầy, khi còn sống, có nói rằng: Khỏi ba ngày thì ta sẽ sống lại. 64 Vậy, xin hãy cắt người canh mả cẩn thận cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đồ nó đến lấy trộm xác đi, rồi nói với dân chúng rằng: Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Sự gian dối sau đó sẽ tệ hơn sự gian dối trước. 65 Phi-lát nói với họ rằng: Các ngươi có lính canh; hãy đi canh giữ theo ý các ngươi. 66 Vậy, họ đi, niêm phong mả Ngài lại, cắt lính canh giữ, lấy làm chắc chắn lắm.

27

Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Tơlơi Đaŏ Ba Yêsu Pơ Khua Kwar Pilat

(Markôs 15:1; Luk 23:1, 2; Yôhan 18:28-32)

1Amăng ưm mơguah, abih bang ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha ană plei črong sai hơduah hơdră jơlan kiăng pơdjai hĭ Yêsu. 2Ƀing gơñu anŭh hĭ Yêsu hăng hrĕ čuăk laih anŭn ba nao jao kơ khua kwar Pilat.

Yudas Rot Tơkuai Ñu Pô

(Bruă Mơnuă 1:18, 19)

3Tơdang Yudas, jing pô pơblư̆ jao lui hĭ Yêsu, ƀuh ƀing khua anŭn klă̱ kơđi kơ Yêsu, ñu hơƀlơ̆k glaĭ biă mă; ñu pơglaĭ klâopluh prăk kăk amrăk, jing prăk ñu mă tŭ laih, kơ ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn kơ ƀing kŏng tha 4hăng laĭ tui anai, “Kâo hơmâo ngă soh laih, yuakơ kâo hơmâo pơblư̆ jao lui hĭ laih Pô ƀu hơmâo tơlơi soh kơ tơlơi djai!”
 Samơ̆ ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Yua hơget ƀing gơmơi khŏm bơngơ̆t kơ tơlơi anŭn lĕ? Anŭn jing bruă grơ̆ng glăm kơ ih pô yơh.”
5Tui anŭn, Yudas glŏm hĭ prăk anŭn amăng wăl tơdron Sang Yang Ơi Adai laih anŭn ñu đuaĭ hĭ. Giŏng anŭn, ñu nao rot hĭ tơkuai ñu.
6Ƀing khua ngă yang prŏng anŭn duñ mă prăk anŭn hăng laĭ, “Anai jing prăk tuh drah, ƀu djơ̆ tui hăng tơlơi phiăn ta ôh kiăng kơ pioh prăk anai hrŏm hăng prăk gơnam Sang Yang.” 7Giŏng anŭn, ƀing gơñu pơtŭ ư yua prăk anŭn blơi sa boh hơma arăng pơanăn Hơma Pô Ma̱n Lŏn kiăng pioh ngă pơsat kơ ƀing djai tơdang rai čuă ngui plei prŏng Yerusalaim yơh. 8Yuakơ arăng blơi hơma anŭn hăng prăk tuh drah, tui anŭn arăng pơanăn kơ hơma anŭn jing “Hơma Drah” hlŏng truh pơ ră anai. 9Hơnŭn yơh, tơlơi truh kar hăng anŭn kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng pô pơala Yirmeyah laĭ lui hlâo laih tui anai, “Ƀing gơñu mă klâopluh prăk kăk amrăk, jing nua ƀing ană Israel hơmâo pơtŭ ư laih kiăng kơ kla brơi kơ Ñu, 10laih anŭn ƀing gơñu yua prăk anŭn kiăng blơi hơma pô ma̱n lŏn tui hăng Khua Yang hơmâo pơđar laih kơ kâo.”

Pilat, Jing Khua Kwar Ƀing Rôm, Phat Kơđi Yêsu

(Markôs 15:2-5; Luk 23:3-5; Yôhan 18:33-38)

11Tơdang anŭn, Yêsu hlak dŏ dơ̆ng gah anăp khua kwar Pilat, jing pô tơña kơ Ñu tui anai, “Djơ̆ mơ̆, Ih jing Pơtao ană plei ƀing Yehudah?”
 Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Ơ, tui hăng tơlơi ih hơmâo laĭ yơh.”
12Samơ̆ tơdang ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha phŏng kơđi kơ Yêsu, Ñu ƀu laĭ glaĭ hơget gĕt ôh.
13Tui anŭn, khua Pilat laĭ kơ Ñu, “Ih ƀu hơmư̆ ôh hă abih bang tơlơi ƀing gơñu phŏng kơđi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih?”
14Samơ̆ Yêsu dŏ rơiăt hơngah ƀu laĭ glaĭ hơget gĕt ôh kơ tơlơi ƀing gơñu phŏng kơđi, tui anŭn khua kwar kơtuă hli̱ng hla̱ng biă mă yơh.

Khua Kwar Pilat Klă Kơđi Yêsu Kơ Tơlơi Djai

(Markôs 15:6-15; Luk 23:13-25; Yôhan 18:39–19:16)

15Tơlơi phiăn amăng rĭm hrơi phet Tơlơi Găn, khua kwar juăt pơrơngai hĭ sa čô mơnă tui hăng tơlơi ƀing ană plei kiăng. 16Hlak anŭn, hơmâo sa čô mơnă sat ƀai hing ang biă mă, anăn ñu Barabbas. 17Tui anŭn, tơdang lu mơnuih pơtŭm glaĭ laih, khua Pilat tơña kơ ƀing gơñu, “Pô pă ƀing gih kiăng kơ kâo pơrơngai brơi lĕ? Barabbas ƀôdah Yêsu pô arăng iâu Messiah lĕ?” 18Ñu ngă tui anŭn yuakơ ñu thâo rơđah laih ƀing gơñu hơmâo jao lui hĭ Yêsu yuakơ tơlơi ƀing gơñu pơiăng yơh.
19Hloh kơ anŭn dơ̆ng, tơdang khua Pilat hlak dŏ ƀơi grê phat kơđi, bơnai ñu mơit rai kơ ñu boh hiăp anai, “Anăm ngă hơget gĕt ôh kơ mơnuih ƀu hơmâo ngă tơlơi soh anŭn. Yuakơ ñu yơh kâo hơmâo bơngơ̆t bơngañ biă mă laih amăng tơlơi rơpơi mlam tơ̆m brơi.”
20Hlak anŭn, ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha pơsur ană plei rơkâo kơ khua Pilat pơrơngai hĭ Barabbas, laih anŭn pơdjai hĭ Yêsu.
21Khua kwar tơña kơ ƀing ană plei tui anai, “Pô pă amăng dua čô anai ƀing gih kiăng kơ kâo pơrơngai hĭ kơ ƀing gih lĕ?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Barabbas!”
22Khua Pilat tơña kơ ƀing gơñu dơ̆ng tui anai, “Tui anŭn, hơget tơlơi kâo či ngă kơ Yêsu pô arăng iâu Messiah anai lĕ?”
 Abih bang ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Pŏng hĭ bĕ Ñu pơ kơyâo bơrơkal!”
23Samơ̆ khua Pilat tơña tui anai, “Hơget tơlơi soh sat Ñu hơmâo ngă laih lĕ?”
 Samơ̆ ƀing gơñu pơhiăp kraih tui dơ̆ng tui anai, “Pŏng hĭ bĕ Ñu pơ kơyâo bơrơkal!”
24Tơdang khua Pilat ƀuh ñu ƀu dưi ngă hơget dơ̆ng tah samơ̆ huĭ kơ tơlơi tơgŭ pơkơdơ̆ng či hơmâo, tui anŭn, ñu mă ƀiă ia laih anŭn rao tơngan ñu ƀơi anăp ƀing mơnuih lu laih anŭn laĭ tui anai, “Kâo ƀu či grơ̆ng glăm brơi kơ tơlơi djai mơnuih anai ôh. Anai jing bruă ƀing gih yơh ngă.”
25Abih bang ană plei laĭ glaĭ tui anai, “Brơi bĕ tơlơi grơ̆ng glăm kơ tơlơi djai pô anŭn lê̆ ƀơi ƀing gơmơi laih anŭn ƀơi ƀing ană tơčô gơmơi.”
26Giŏng anŭn, ñu pŏk brơi Barabbas kơ ƀing gơñu, samơ̆ ñu pơđar arăng taih hơnuăt Yêsu. Laih anŭn ñu jao Yêsu kơ ƀing ling tơhan ba nao pŏng hĭ Ñu pơ kơyâo bơrơkal yơh.

Ƀing Ling Tơhan Djik Djak Kơ Yêsu

(Markôs 15:16-20; Yôhan 19:2, 3)

27Giŏng anŭn, ƀing ling tơhan khua kwar anŭn ba Yêsu nao pơ kơđông gơñu laih anŭn pơƀut glaĭ abih ƀing ling tơhan amăng grup anŭn jum dar Yêsu. 28Ƀing gơñu tŏh hĭ sum ao Ñu, laih anŭn buh brơi kơ Ñu sa blah ao phyung mriah. 29Giŏng anŭn, ƀing gơñu mơñam sa boh đoăn pơtao hăng hrĕ rơ̆k drơi laih anŭn troă ƀơi akŏ Yêsu. Ƀing gơñu ăt pioh mơ̆n ƀơi tơngan gah hơnuă Yêsu sa ƀĕ gai hơnuăt laih anŭn tŏ tơŭt gah anăp Ñu djik djak tui anai, “Mơak klă yơh kơ ih, Ơ Pơtao kơ ƀing Yehudah ăh!” 30Laih anŭn ƀing gơñu kơčŭh ia bah ƀơi Yêsu laih anŭn mă gai hơnuăt anŭn taih ƀơi akŏ Ñu. 31Tơdơi kơ ƀing gơñu djik djak laih, ƀing gơñu tŏh hĭ ao phyung mriah anŭn laih anŭn brơi Ñu buh glaĭ sum ao Ñu pô. Giŏng anŭn, ƀing gơñu ba Yêsu nao pơ anih kiăng pŏng hĭ pơ kơyâo bơrơkal yơh.

Ƀing Ling Tơhan Pŏng Yêsu Ƀơi Kơyâo Bơrơkal

(Markôs 15:21-32; Luk 23:26-43; Yôhan 19:17-27)

32Tơdang ƀing gơñu rơbat nao, ƀing gơñu bưp sa čô mơnuih mơ̆ng plei prŏng Kurênê, anăn Simôn. Ƀing tơhan pơgŏ̱ gơ̆ glăm brơi kơyâo bơrơkal kơ Yêsu. 33Ƀing gơñu nao truh pơ anih arăng iâu Golgotha, kiăng laĭ “Anih Klang Akŏ.” 34Pơ anih anŭn ƀing gơñu brơi kơ Yêsu mơñum ia tơpai boh kơƀâo lŭk hăng ia phĭ̱, samơ̆ tơdang Ñu liah djơ̆, Ñu hơngah ƀu mơñum ôh.
35Tơdơi kơ ƀing tơhan anŭn pŏng hĭ Yêsu pơ kơyâo bơrơkal, ƀing gơñu mă čram pơpha hĭ sum ao Ñu. 36Giŏng anŭn, ƀing gơñu dŏ be̱r gak wai Ñu pơ anŭn yơh. 37Gah ngŏ kơ akŏ Yêsu, ƀing gơñu pioh sa tơlơi čih phŏng kơđi ƀơi hơnăl pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ñu tui anai, “anai jing yêsu, pơtao ƀing yehudah.” 38Giŏng anŭn, ƀing gơñu ăt pŏng dua čô mơnuih klĕ dŏp hrŏm hăng Yêsu, sa čô ƀơi kơyâo bơrơkal gah hơnuă laih anŭn sa čô ƀơi kơyâo bơrơkal gah ieo Ñu.
39Ƀing hlơi pô găn nao pơ anih anŭn, ƀing gơñu tơtăh akŏ djik djak kơ Ñu laih anŭn laĭ tui anai, 40“Ŏng yơh jing pô laĭ kiăng pơrai hĭ Sang Yang Ơi Adai laih anŭn ma̱n pơdơ̆ng glaĭ sang anŭn amăng klâo hrơi! Pơklaih bĕ ŏng pô tơdah ŏng jing Ană Ơi Adai! Trŭn bĕ mơ̆ng kơyâo bơrơkal anŭn!”
41Kar kaĭ mơ̆n, ƀing khua ngă yang prŏng, ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt Môseh laih anŭn ƀing kŏng tha ană plei ăt djik djak kơ Yêsu mơ̆n hăng pơlaĭ tui anai, 42“Ñu pơklaih laih arăng, samơ̆ ñu ƀu dưi pơklaih hĭ ôh ñu pô! Hah, ñu laĭ ñu pô yơh jing pơtao kơ ƀing Israel! Brơi ñu trŭn rai mơ̆ng kơyâo bơrơkal ră anai bĕ, tui anŭn ƀing ta či đaŏ kơ ñu jing Messiah yơh! 43Ñu đaŏ kơnang kơ Ơi Adai laih anŭn yap ñu pô jing Ană Ơi Adai. Tơdah tui anŭn, brơi kơ ƀing ta lăng bĕ tơdah Ơi Adai kiăng pơklaih hĭ ñu ră anai!” 44Laih anŭn, dua čô mơnuih klĕ dŏp, jing ƀing arăng hơmâo pŏng laih pơ kơyâo bơrơkal hrŏm hăng Yêsu, ăt djik djak kơ Ñu kar kaĭ mơ̆n.

Yêsu Tơĭ Pran

(Markôs 15:33-41; Luk 23:44-49; Yôhan 19:28-30)

45Čơdơ̆ng mơ̆ng yang hrơi dơ̆ng hlŏng truh kơ mông tŏng krah klăm hơmâo tơlơi kơnăm mơmŏt go̱m abih anih lŏn anŭn. 46Kơplăh wăh ƀơi mông tŏng krah klăm, Yêsu ur kraih amăng tơlơi pơhiăp Ñu pô tui anai, “Eli, Eli, lama sabakthani” kiăng laĭ “Ơ Ơi Adai Kâo ăh, Ơ Ơi Adai Kâo ăh, yua hơget Ih đuaĭ lui hĭ laih Kâo lĕ?”
47Hơmâo đơđa ƀing mơnuih dŏ dơ̆ng jĕ pơ anŭn hơmư̆ Yêsu laih anŭn ƀing gơñu laĭ, “Ơ, ñu iâu pô pơala Êliyah rai djru ñu.”
48Tañ mơtam sa čô amăng ƀing gơñu đuaĭ nao mă sa boh pông rơyăn añrŭ amăng ia tơpai mơsăm, pioh ƀơi rơjŭng gai hơnuăt laih anŭn yơr đĭ kơ Ñu mơñum. 49Samơ̆ ƀing pơkŏn laĭ, “Tơguan amơĭ, brơi kơ ƀing ta dŏ lăng bĕ tơdah Êliyah rai pơklaih hĭ Ñu!”
50Giŏng anŭn, Yêsu ur kraih dơ̆ng hăng tơĭ pran yơh.
51Ƀơi mông anŭn, tŏ tơnŏ khăn păng kơpa̱l amăng Sang Yang Ơi Adai tơhak hĭ jing dua mơ̆ng ngŏ truh pơ yŭ. Lŏn pơpư̆ pơgơi laih anŭn khul boh pơtâo čơđa̱ng pơčah hĭ. 52Hơdôm pơsat pơčah pŏk hĭ laih anŭn hơmâo lu ƀing mơnuih tơpă hơnơ̆ng, jing ƀing djai laih hlâo adih, tơgŭ hơdip glaĭ dơ̆ng, 53laih anŭn tơbiă mơ̆ng khul pơsat. Tơdơi kơ Yêsu hơdip glaĭ mơ̆ng mơnuih djai, ƀing gơñu mŭt nao pơ plei Yerusalaim laih anŭn pơrơđah gơñu pô kơ lu mơnuih ƀuh.
54Tơdang khua tơhan hrŏm hăng ƀing tơhan ñu hlak dŏ gak Yêsu ƀuh lŏn pơpư̆ pơgơi laih anŭn abih bang tơlơi hơmâo truh laih, ƀing gơñu huĭ biă mă laih anŭn laĭ, “Sĭt Pô anai yơh jing Ană Ơi Adai!”
55Hơmâo lu ƀing đah kơmơi pơ anih anŭn dŏ lăng mơ̆ng ataih. Ƀing gơñu hơmâo đuaĭ tui laih hăng Yêsu mơ̆ng kwar Galilê kiăng kơ djru Ñu. 56Amăng ƀing gơñu hơmâo HʼMari plei Magdalênê, HʼMari amĭ Yakơ hăng Yôsês, laih anŭn bơnai Zebedai, jing amĭ Yakơ hăng Yôhan.

Yôsêp Mơ̆ng Plei Arimathea Dơ̱r Yêsu

(Markôs 15:42-47; Luk 23:50-56; Yôhan 19:38-42)

57Tơdang klăm mơmŏt jĕ či truh laih, hơmâo sa čô pô pơdrŏng rai mơ̆ng plei Arimathea, anăn ñu Yôsêp laih anŭn ăt jing ding kơna Yêsu mơ̆n. 58Ñu nao rơkâo pơ Pilat kơ atâo Yêsu kiăng kơ dơ̱r laih anŭn Pilat pơđar arăng jao brơi atâo Yêsu kơ ñu yơh. 59Yôsêp mă sŏm pŏn hĭ atâo anŭn hăng khăn rơgoh, 60laih anŭn pơđih atâo anŭn amăng pa̱r pơsat ñu pô phrâo ƀŏh amăng boh pơtâo. Giŏng anŭn, ñu tơglŭng boh pơtâo prŏng kơđŏl hĭ bah amăng mŭt pơ pơsat laih anŭn đuaĭ hĭ yơh. 61Hlak anŭn hơmâo HʼMari plei Magdalênê hrŏm hăng HʼMari pơkŏn anŭn dŏ be̱r pơ anŭn gah anăp kơ pa̱r pơsat.

Ƀing Tơhan Gak Wai Pơsat

62Amăng hrơi tŏ tui, jing hrơi tơdơi kơ hrơi Prap Pre kơ Tơlơi Găn, ƀing khua ngă yang prŏng hăng ƀing Pharisai nao bưp Pilat. 63Ƀing gơñu laĭ, “Ƀing gơmơi hơdơr glaĭ tơdang pô pơƀlŏr anŭn hlak ñu dŏ hơdip hlâo adih, ñu laĭ tui anai, ‘Tơdơi kơ klâo hrơi Kâo či hơdip glaĭ dơ̆ng.’ 64Tui anŭn, rơkâo kơ ih pơđar kơ arăng nao pơñen gak wai bĕ pơsat anŭn tơl truh hrơi tal klâo. Ngă tui anŭn kiăng kơ ƀing ding kơna ñu ƀu dưi nao klĕ đuaĭ hĭ atâo ñu laih anŭn ră ruai kơ ƀing arăng, ‘Ñu hơmâo hơdip glaĭ mơ̆ng djai.’ Tơlơi pơƀlŏr hơnăl tuč anŭn či sat hloh kơ tơlơi pơƀlŏr hlâo adih yơh.”
65Pilat laĭ glaĭ, “Ƀing gih djă̱ ƀiă tơhan kâo nao pơñen gak wai pơsat anŭn bĕ tui hăng tơlơi ƀing gih thâo!”
66Tui anŭn, ƀing gơñu đuaĭ nao kơđŏm gru ƀơi boh pơtâo laih anŭn brơi ƀing tơhan anŭn pơñen gak wai pơsat anŭn yơh.