8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

(II Sử 5:2 – 6:2)

1Bấy giờ, vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và trưởng gia tộc của dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem, để rước Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. 2Mọi người nam của Y-sơ-ra-ên đều tập hợp bên vua Sa-lô-môn vào tháng Ê-tha-nim, là tháng bảy để dự lễ. 3Khi tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến thì các thầy tế lễ khiêng Hòm Giao Ước lên, 4và họ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đi, cùng với Lều Hội Kiến và tất cả các vật dụng thánh trong Lều. Các thầy tế lễ và người Lê-vi đem các thứ ấy lên.
5Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đã tập hợp bên vua, đứng trước Hòm Giao Ước cùng dâng sinh tế chiên và bò rất nhiều, đến nỗi không thể đếm được. 6Các thầy tế lễ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đặt vào vị trí bên trong cùng của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi đặt Hòm Giao Ước nên che phủ Hòm Giao Ước và các đòn khiêng. 8Các đòn khiêng dài đến nỗi từ Nơi Thánh ở ngay trước Nơi Chí Thánh, người ta có thể trông thấy đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9Trong Hòm Giao Ước không có gì khác ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào tại Hô-rếp, nơi Đức Giê-hô-va đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập.
10Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh thì có đám mây tràn đầy đền thờ của Đức Giê-hô-va, 11đến nỗi do đám mây ấy mà các thầy tế lễ không thể tiếp tục hành lễ được, vì vinh quang của Đức Giê-hô-va tràn ngập đền thờ của Ngài.
12Bấy giờ, Sa-lô-môn cầu nguyện:
  “Đức Giê-hô-va đã phán rằng
   Ngài ngự trong đám mây dày đặc.
  13Nhưng con đã xây cho Ngài một đền thờ nguy nga,
   Một nơi để Ngài ngự đời đời.”

Diễn từ của vua Sa-lô-môn

14Rồi vua quay mặt lại chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong khi mọi người đang đứng. 15Vua nói: “Ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha trẫm, và dùng chính tay Ngài làm ứng nghiệm lời ấy. Ngài phán rằng: 16‘Từ ngày Ta đã đem dân Ta là Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một đền thờ cho danh Ta ngự tại đó. Nhưng Ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 17Lúc ấy, Đa-vít, cha trẫm, có ý định xây cất một đền thờ cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, cha trẫm, rằng: ‘Con có ý định xây cất một đền thờ cho danh Ta là điều tốt. 19Tuy nhiên, con sẽ không xây cất đền thờ ấy đâu, nhưng con của con, do con sinh ra, sẽ xây cất đền thờ cho danh Ta.’ 20Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán hứa, vì trẫm đã kế vị Đa-vít, cha trẫm, và ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đúng như Đức Giê-hô-va đã phán. Trẫm đã xây cất đền thờ nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21Tại đó, trẫm đã chuẩn bị một chỗ để đặt Hòm Giao Ước, trong đó có giao ước của Đức Giê-hô-va, là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta khi đem họ ra khỏi đất Ai Cập.”

Lời cầu nguyện cung hiến của Sa-lô-môn

22Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời và cầu nguyện rằng: 23“Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Không có thần nào trên trời cao kia hoặc dưới đất thấp nầy giống như Ngài. Chúa giữ giao ước và lòng nhân từ với các đầy tớ Ngài, là những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 24Chúa đã giữ lời Ngài phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Chúa phán hứa thì tay Chúa đã thực hiện như đã có ngày nay. 25Vậy bây giờ, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin giữ lời Chúa đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Nếu con cháu của con cẩn thận trong đường lối mình, bước đi trước mặt Ta như con đã bước đi, thì trước mặt Ta, con sẽ không hề thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đâu.’ 26Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin Chúa làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con.
27Nhưng thật ra Đức Chúa Trời có ngự trên đất nầy chăng? Kìa, các tầng trời, ngay cả trời của các tầng trời cũng không thể chứa Ngài được, huống chi đền thờ nầy mà con đã xây cất! 28Dù vậy, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con! Xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của đầy tớ Ngài, xin đoái nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà hôm nay đầy tớ Ngài đang dâng lên trước mặt Ngài. 29Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là nơi Chúa đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời khẩn nguyện của đầy tớ Ngài hướng về nơi nầy mà kêu cầu. 30Xin Chúa lắng nghe lời khẩn cầu mà đầy tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài hướng về nơi nầy cầu nguyện. Từ nơi ngự của Chúa trên các tầng trời, xin Chúa đoái nghe và tha thứ cho.
31Nếu có ai phạm tội với người lân cận mình và bị buộc phải thề, nên người ấy đến thề trước bàn thờ của Chúa trong đền thờ nầy, 32thì xin Chúa trên trời lắng nghe, hành động và phân xử cho các đầy tớ Ngài, kết án kẻ có tội, khiến nó phải chịu lấy hậu quả của tội lỗi mình, và xưng công chính cho người công chính bằng cách ban thưởng theo sự công chính của người ấy.
33Khi Y-sơ-ra-ên, con dân của Ngài, bị kẻ thù đánh bại vì phạm tội với Ngài, nếu họ trở lại với Ngài, xưng nhận danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Ngài trong đền thờ nầy, 34thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35Khi các tầng trời bị đóng chặt, không có mưa vì họ đã phạm tội với Chúa, nếu họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Chúa, lìa bỏ tội lỗi mình vì Chúa đã sửa phạt họ, 36thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho các đầy tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin Chúa chỉ cho họ con đường chính đáng mà họ phải đi, và cho mưa rơi trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37Khi trong xứ có đói kém, dịch bệnh, hoặc hạn hán, nấm mốc, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù vây hãm các cổng thành của xứ, hoặc có bất cứ tai họa, bệnh tật gì; 38nếu có một người hoặc toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình, và giơ tay ra hướng về đền thờ nầy mà cầu nguyện, khẩn xin bất luận điều gì, 39thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe, tha thứ, hành động và báo trả cho mỗi người tùy theo đường lối của họ, và theo những gì Chúa biết trong lòng họ, vì chỉ một mình Chúa biết rõ lòng người; 40để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời, khi họ sống trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
41Ngoài ra, đối với người ngoại quốc là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì nghe danh Ngài nên từ xứ xa đến 42(vì họ đã nghe về uy danh của Chúa, về tay quyền năng và cánh tay giơ thẳng ra của Ngài). Khi họ đến cầu nguyện trong đền thờ nầy, 43thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe và làm cho họ mọi điều họ cầu xin Ngài, để muôn dân trên đất nhận biết danh Chúa và kính sợ Ngài giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và để người ta biết rằng danh Chúa được kêu cầu nơi đền thờ mà con đã xây cất.
44Khi dân của Chúa ra trận chiến đấu với quân thù ở bất cứ nơi nào Chúa sai họ đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va hướng về thành Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Ngài, 45thì xin Chúa trên trời lắng nghe các lời cầu nguyện và nài xin của họ mà thực thi công lý cho họ.
46Khi họ phạm tội với Chúa — vì chẳng có người nào không phạm tội — khiến Chúa nổi giận với họ và phó họ cho kẻ thù để họ bị lưu đày trong xứ của kẻ thù, hoặc xa hay gần. 47Nếu trong đất lưu đày, họ hồi tâm, ăn năn và nài xin với Chúa rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, hành động một cách bướng bỉnh và gian ác;’ 48nếu trong xứ của kẻ thù, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện với Ngài, hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Chúa, 49thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ và thực thi công lý cho họ. 50Xin Chúa tha thứ cho dân Ngài là dân đã phạm tội với Ngài, và tha thứ tất cả sự vi phạm mà họ đã phạm với Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ lưu đày có lòng thương xót họ, 51vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp mà Ngài đã đem ra khỏi Ai Cập, tức là khỏi lò luyện sắt. 52Nguyện mắt Chúa đoái xem đầy tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, lắng tai nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mỗi khi họ kêu cầu với Ngài. 53Lạy Chúa là Đức Giê-hô-va! Chúa đã biệt riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc trên mặt đất để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã tuyên phán qua Môi-se là đầy tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai Cập.”

Sa-lô-môn chúc phước cho hội chúng

54Khi Sa-lô-môn đã dâng lên Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện và nài xin nầy xong thì vua đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. 55Vua đứng và lớn tiếng chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
56“Ca ngợi Đức Giê-hô-va, Đấng đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã phán! Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà Ngài đã phán qua Môi-se, đầy tớ Ngài, thì chẳng có lời nào không ứng nghiệm. 57Cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta; xin Ngài đừng lìa, đừng bỏ chúng ta. 58Cầu xin Ngài giục lòng chúng ta hướng về Ngài, để chúng ta đi trong tất cả đường lối Ngài, tuân giữ những điều răn, luật pháp và mệnh lệnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. 59Nguyện các lời trẫm đã nài xin trước mặt Đức Giê-hô-va sẽ ở bên cạnh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm, để bảo vệ quyền lợi của đầy tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, tùy theo nhu cầu mỗi ngày, 60để muôn dân trên đất biết rằng chính Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chứ chẳng có ai khác. 61Vậy, các ngươi hãy hết lòng trung thành với Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chúng ta, bước đi trong luật pháp, và tuân giữ điều răn của Ngài như các ngươi đã làm ngày nay.”

Sa-lô-môn dâng sinh tế

62Sau đó, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua dâng các sinh tế trước mặt Đức Giê-hô-va. 63Sa-lô-môn dâng sinh tế lên Đức Giê-hô-va gồm hai mươi hai nghìn con bò đực và một trăm hai mươi nghìn con chiên làm tế lễ bình an. Như vậy, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên Đức Giê-hô-va. 64Trong ngày đó, vua biệt riêng ra thánh phần giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, làm nơi dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an, vì bàn thờ bằng đồng để trước mặt Đức Giê-hô-va quá nhỏ, không thể chứa các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an.
65Trong lúc đó, Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua cùng dự lễ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa, cộng tất cả là mười bốn ngày. Thật là một hội chúng đông đảo, từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai Cập. 66Vào ngày thứ tám, vua cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua rồi trở về trại mình, lòng vui mừng phấn khởi về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, đầy tớ Ngài, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.

8

Đem Rương giao ước vào Đền thờ

1Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên - trưởng các đại tộc và trưởng các gia tộc - họp tại Giê-ru-sa-lem để thỉnh Rương giao ước của Chúa từ Si-ôn, thành Đa-vít lên Đền thờ. 2Vào dịp người Y-sơ-ra ên đến dự lễ tháng Ê-tha-nim tức tháng bảy, 3trước sự hiện diện của các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ khiêng Rương giao ước lên Đền thờ. 4Các thầy tế lễ người Lê-vi còn đem theo cả Đền tạm và các dụng cụ thánh trong Đền tạm. 5Nhân dân Y-sơ-ra-ên đến dự lễ đứng quanh vua Sa-lô-môn, trước Rương giao ước, cùng dâng tế vô số cừu và bò. 6Các thầy tế lễ đem Rương giao ước của Chúa vào đặt trong Nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7Hai chê-ru-bim có cánh dang ra che phủ bên trên Rương và đòn khiêng. 8Đòn khiêng rất dài, nên từ nơi thánh trước Nơi chí thánh có thể trông thấy đầu cây đòn, nhưng từ bên ngoài không thấy được. Các đòn khiêng nay vẫn còn tại đó. 9Lúc ấy trong Rương chỉ có hai bảng đá do Mai-sen đặt vào lúc còn ở núi Hô-rếp, khi Chúa kết ước với người Y-sơ-ra-ên sau khi họ rời Ai-cập.
10Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Chí Thánh, mây tràn vào Đền thờ Chúa Hằng Hữu, 11nên các vị ấy không thể tiếp tục đứng lại hành lễ. Vinh quang của Chúa tràn ngập Đền thờ. 12Sa-lô-môn kính cẩn nói: "Chúa có phán; 'Ngài ngự nơi tối tăm dày đặc.’ 13Nhưng tôi có cất cái Đền làm nơi Ngài ở, một nơi để Ngài ngự đời đời."
14Rồi vua quay lại, chúc phước lành cho dân trong khi mọi người đều đứng. 15Vua nói: "Ngợi khen Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã thực hiện lời Ngài hứa với Đa-vít, cha ta, vì Chúa có nói: 16“Từ ngày đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, Ta không chọn nơi nào trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên để dựng Đền thờ cho danh Ta, nhưng ta chọn Đa-vít cai trị dân Ta.' 17Đa-vít, cha Ta muốn cất một Đền thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. 18Nhưng Chúa nói với Đa-vít: Ta biết con muốn cất một Đền thờ cho danh Ta; dù ý muốn ấy là phải, 19nhưng con của con mới là người thực hiện công tác ấy, chứ không phải con.' 20Bây giờ Chúa làm điều Ngài hứa, vì nay ta lên kế vị cha ta, và ta vừa cất xong một Đền thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. 21Trong Đền thờ, ta có chuẩn bị nơi đặt Rương giao ước - giao ước Chúa Hằng Hữu đã lập với tổ tiên ta chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi Ai-cập."

Sa-lô-môn cầu nguyện cung hiến Đền thờ

22Trước mặt nhân dân, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Chúa, đưa hai tay lên trời 23và cầu nguyện "Lạy Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào trên trời hay dưới đất như Ngài. Chúa giữ giao ước và tỏ lòng nhân từ với người hết lòng theo đường lối Chúa. 24Hôm nay, Chúa đã thực hiện lời hứa với Đa-vít, cha con. 25Bây giờ, lạy Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa cũng thực hiện lời hứa này với Đa-vít: 'Nếu con cháu ngươi noi gương ngươi, thận trọng trong con đường mình, tất nhiên sẽ luôn luôn có người kế vị ngươi.' 26Lạy Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa cho lời hứa này cũng được thực hiện.
27Nhưng Thượng Đế có ở trên đất này không? Trời đất và vũ trụ bao la cũng không chứa được Ngài, huống hồ cái Đền con vừa mới cất. 28Tuy nhiên, lạy Thượng - Đế Hằng Hữu, xin nghe lời cầu nguyện con, 29xin Chúa đêm ngày để mắt trông chừng Đền thờ này, là nơi Ngài có nói đến: 'Danh Ta ngự tại đây,' để mỗi khi con hướng về Đền thờ cầu nguyện, Chúa sẽ nghe con. 30Xin nghe mọi lời con và lời nhân dân Y-sơ-ra-ên cầu nguyện mỗi khi chúng con hướng về nơi này. Xin Chúa từ trời lắng nghe và tha thứ cho chúng con.
31Nếu có người đứng thề trước bàn thờ của nơi này để thanh minh một tội trạng; 32xin Chúa từ trời lắng nghe, phân xử và trừng phạt kẻ có tội nhưng biện minh cho người ngay lành.
33Khi dân Y-sơ-ra-ên có tội, bị quân thù đánh bại, nếu họ ăn năn, xưng nhận danh Ngài và hướng về Đền này kêu cầu với Chúa, 34xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho họ, đem họ về đất này, là đất Chúa đã cho tổ tiên họ.
35Khi trời đóng chặt, mưa không rơi xuống đất vì nhân dân phạm tội với Chúa; nếu họ ăn năn, hướng về nơi nầy cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài trong khi bị Chúa trừng phạt, 36xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho dân Ngài, hướng dẫn họ đi vào con đường chính đáng, cho mưa rơi xuống nhuần tưới đất đai mà Ngài đã ban cho họ.
37Khi trong nước có nạn đói, nạn dịch, thóc lúa cây cối bị cằn cỗi, bị nấm mốc, bị châu chấu cắn phá, hoặc lúc bị quân thù vây hãm, hay bị bất cứ tai nạn, bệnh tật gì khác, 38nếu có một người hoặc mọi người Y-sơ-ra-ên nhận tội mình, dang tay hướng về Đền thờ này cầu nguyện; 39xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho, đối xử với mỗi người tùy theo cách ăn ở của họ, vì Chúa - chỉ có Chúa - biết lòng người. 40Như thế, họ sẽ kính sợ Chúa trọn đời khi họ sống trong miền đất Chúa ban cho tổ tiên họ.
41,42Ngay cả người ngoại quốc, khi nghe danh lớn của Chúa (vì người ta sẽ nghe tiếng về uy danh và về quyền năng siêu việt của Ngài), họ sẽ từ xa đến cầu nguyện trong Đền thờ này, 43xin Chúa từ trời lắng nghe, nhậm lời họ kêu cầu. Như thế nhân dân trên đất sẽ nhận biết và kính sợ Chúa cũng như người Y-sơ-ra-ên, và cả thế giới đều biết rằng đây là Đền thờ của Chúa.
44Khi Chúa sai dân Ngài ra trận chiến đấu với quân thù, họ sẽ hướng về thành Chúa chọn và Đền con cất cho Ngài để cầu nguyện, 45xin Chúa từ trời nghe lời cầu nguyện của họ và bênh vực cho.
46Nếu họ phạm tội với Chúa vì nào ai không phạm tội khiến Chúa giận, và cho phép quân thù bắt họ làm tù binh dẫn về đất địch, dù xa hay gần; 47nếu họ hồi tâm, tỏ lòng ăn năn và kêu xin với Chúa: 'Chúng con có tội, làm điều tà ác;' 48nếu họ hết lòng thống hối trong khi còn ở trên đất quân thù, hướng về quê hương xứ Chúa đã cho tổ tiên họ, hướng về thành Chúa chọn và Đền thờ con xây cất để cầu nguyện với Chúa, 49,50xin Chúa từ trời lắng nghe, tha hết mọi lỗi lầm của họ, bênh vực họ, khiến quân thù có lòng thương xót họ, 51Vì họ là dân, là cơ nghiệp của Ngài được giải phóng khỏi Ai-cập tức lò lửa hực. 52Xin Chúa mở mắt nhìn xem và lắng tai nghe họ mỗi khi họ kêu cầu với Chúa. 53Vì khi đem tổ tiên chúng con ra khỏi Ai-cập, Chúa có nói với Mai-sen, tôi tớ Chúa là Chúa tách riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc để làm tuyển dân của Ngài."
54,55Lúc cầu nguyện, Sa-lô-môn quỳ gối trước bàn thờ Chúa Chúa Hằng Hữu, hai tay đưa thẳng lên trời. Cầu nguyện xong vua đứng dậy, lớn tiếng chúc phước lành cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên: 56“Ngợi khen Chúa, vì Ngài cho Y-sơ-ra-ên hưởng thái bình. Mọi lời Chúa hứa qua Mai-sen đều được Ngài thực hiện, không sót một điều nào. 57Cầu Thượng Đế Hằng Hữu ở với chúng ta như đã ở với tổ tiên ta, cầu Chúa đừng rời, đừng bỏ chúng ta. 58Cầu cho lòng ta hướng về Chúa, đi theo lối Ngài, tuân giữ các điều răn, luật lệ, quy-tắc Chúa truyền cho tổ tiên ta. 59Cầu cho những lời cầu nguyện của tôi được ngày đêm ở trước mặt Chúa, để mỗi ngày Ngài giúp chúng ta trong mọi nhu cầu. 60Như vậy, nhân thế mới biết Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế, chẳng có Thượng Đế nào khác. 61Về phần đồng bào, phải hết lòng trung thành với Thượng Đế Hằng Hữu, tuân giữ luật lệ và điều răn của Ngài, như đồng bào hiện đang tuân giữ.

Lễ cung hiến Đền thờ

62,63Sau đó, vua và nhân dân Y-sơ-ra-ên làm lễ cung hiến Đền thờ cho Chúa Hằng Hữu. Họ dâng hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con cừu làm lễ vật thù ân cho Ngài. 64Hôm ấy vua để riêng phần giữa sân (ngay trước Đền thờ) làm nơi dâng lễ thiêu, ngũ cốc và mỡ của lễ vật thù ân, vì bàn thờ đồng không đủ chứa các lễ vật này. 65Vậy Sa-lô-môn và nhân dân Y-sơ-ra-ên từ khắp nơi, từ cổng Ha-mát cho đến suối Ai-cập, lũ lượt kéo đến trước mặt Chúa trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa. 66Sau đấy, vua cho nhân dân về. Họ chúc phước lành cho vua rồi lên đường. Trên đường về, lòng họ rộn rã vui mừng về mọi điều tốt lành Chúa Hằng Hữu làm cho Đa-vít, tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân tộc Ngài.