8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

(II Sử 5:2 – 6:2)

1Bấy giờ, vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và trưởng gia tộc của dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem, để rước Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. 2Mọi người nam của Y-sơ-ra-ên đều tập hợp bên vua Sa-lô-môn vào tháng Ê-tha-nim, là tháng bảy để dự lễ. 3Khi tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến thì các thầy tế lễ khiêng Hòm Giao Ước lên, 4và họ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đi, cùng với Lều Hội Kiến và tất cả các vật dụng thánh trong Lều. Các thầy tế lễ và người Lê-vi đem các thứ ấy lên.
5Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đã tập hợp bên vua, đứng trước Hòm Giao Ước cùng dâng sinh tế chiên và bò rất nhiều, đến nỗi không thể đếm được. 6Các thầy tế lễ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đặt vào vị trí bên trong cùng của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi đặt Hòm Giao Ước nên che phủ Hòm Giao Ước và các đòn khiêng. 8Các đòn khiêng dài đến nỗi từ Nơi Thánh ở ngay trước Nơi Chí Thánh, người ta có thể trông thấy đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9Trong Hòm Giao Ước không có gì khác ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào tại Hô-rếp, nơi Đức Giê-hô-va đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập.
10Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh thì có đám mây tràn đầy đền thờ của Đức Giê-hô-va, 11đến nỗi do đám mây ấy mà các thầy tế lễ không thể tiếp tục hành lễ được, vì vinh quang của Đức Giê-hô-va tràn ngập đền thờ của Ngài.
12Bấy giờ, Sa-lô-môn cầu nguyện:
  “Đức Giê-hô-va đã phán rằng
   Ngài ngự trong đám mây dày đặc.
  13Nhưng con đã xây cho Ngài một đền thờ nguy nga,
   Một nơi để Ngài ngự đời đời.”

Diễn từ của vua Sa-lô-môn

14Rồi vua quay mặt lại chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong khi mọi người đang đứng. 15Vua nói: “Ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha trẫm, và dùng chính tay Ngài làm ứng nghiệm lời ấy. Ngài phán rằng: 16‘Từ ngày Ta đã đem dân Ta là Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một đền thờ cho danh Ta ngự tại đó. Nhưng Ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 17Lúc ấy, Đa-vít, cha trẫm, có ý định xây cất một đền thờ cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, cha trẫm, rằng: ‘Con có ý định xây cất một đền thờ cho danh Ta là điều tốt. 19Tuy nhiên, con sẽ không xây cất đền thờ ấy đâu, nhưng con của con, do con sinh ra, sẽ xây cất đền thờ cho danh Ta.’ 20Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán hứa, vì trẫm đã kế vị Đa-vít, cha trẫm, và ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đúng như Đức Giê-hô-va đã phán. Trẫm đã xây cất đền thờ nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21Tại đó, trẫm đã chuẩn bị một chỗ để đặt Hòm Giao Ước, trong đó có giao ước của Đức Giê-hô-va, là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta khi đem họ ra khỏi đất Ai Cập.”

Lời cầu nguyện cung hiến của Sa-lô-môn

22Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời và cầu nguyện rằng: 23“Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Không có thần nào trên trời cao kia hoặc dưới đất thấp nầy giống như Ngài. Chúa giữ giao ước và lòng nhân từ với các đầy tớ Ngài, là những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 24Chúa đã giữ lời Ngài phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Chúa phán hứa thì tay Chúa đã thực hiện như đã có ngày nay. 25Vậy bây giờ, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin giữ lời Chúa đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Nếu con cháu của con cẩn thận trong đường lối mình, bước đi trước mặt Ta như con đã bước đi, thì trước mặt Ta, con sẽ không hề thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đâu.’ 26Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin Chúa làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con.
27Nhưng thật ra Đức Chúa Trời có ngự trên đất nầy chăng? Kìa, các tầng trời, ngay cả trời của các tầng trời cũng không thể chứa Ngài được, huống chi đền thờ nầy mà con đã xây cất! 28Dù vậy, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con! Xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của đầy tớ Ngài, xin đoái nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà hôm nay đầy tớ Ngài đang dâng lên trước mặt Ngài. 29Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là nơi Chúa đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời khẩn nguyện của đầy tớ Ngài hướng về nơi nầy mà kêu cầu. 30Xin Chúa lắng nghe lời khẩn cầu mà đầy tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài hướng về nơi nầy cầu nguyện. Từ nơi ngự của Chúa trên các tầng trời, xin Chúa đoái nghe và tha thứ cho.
31Nếu có ai phạm tội với người lân cận mình và bị buộc phải thề, nên người ấy đến thề trước bàn thờ của Chúa trong đền thờ nầy, 32thì xin Chúa trên trời lắng nghe, hành động và phân xử cho các đầy tớ Ngài, kết án kẻ có tội, khiến nó phải chịu lấy hậu quả của tội lỗi mình, và xưng công chính cho người công chính bằng cách ban thưởng theo sự công chính của người ấy.
33Khi Y-sơ-ra-ên, con dân của Ngài, bị kẻ thù đánh bại vì phạm tội với Ngài, nếu họ trở lại với Ngài, xưng nhận danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Ngài trong đền thờ nầy, 34thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35Khi các tầng trời bị đóng chặt, không có mưa vì họ đã phạm tội với Chúa, nếu họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Chúa, lìa bỏ tội lỗi mình vì Chúa đã sửa phạt họ, 36thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho các đầy tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin Chúa chỉ cho họ con đường chính đáng mà họ phải đi, và cho mưa rơi trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37Khi trong xứ có đói kém, dịch bệnh, hoặc hạn hán, nấm mốc, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù vây hãm các cổng thành của xứ, hoặc có bất cứ tai họa, bệnh tật gì; 38nếu có một người hoặc toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình, và giơ tay ra hướng về đền thờ nầy mà cầu nguyện, khẩn xin bất luận điều gì, 39thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe, tha thứ, hành động và báo trả cho mỗi người tùy theo đường lối của họ, và theo những gì Chúa biết trong lòng họ, vì chỉ một mình Chúa biết rõ lòng người; 40để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời, khi họ sống trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
41Ngoài ra, đối với người ngoại quốc là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì nghe danh Ngài nên từ xứ xa đến 42(vì họ đã nghe về uy danh của Chúa, về tay quyền năng và cánh tay giơ thẳng ra của Ngài). Khi họ đến cầu nguyện trong đền thờ nầy, 43thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe và làm cho họ mọi điều họ cầu xin Ngài, để muôn dân trên đất nhận biết danh Chúa và kính sợ Ngài giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và để người ta biết rằng danh Chúa được kêu cầu nơi đền thờ mà con đã xây cất.
44Khi dân của Chúa ra trận chiến đấu với quân thù ở bất cứ nơi nào Chúa sai họ đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va hướng về thành Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Ngài, 45thì xin Chúa trên trời lắng nghe các lời cầu nguyện và nài xin của họ mà thực thi công lý cho họ.
46Khi họ phạm tội với Chúa — vì chẳng có người nào không phạm tội — khiến Chúa nổi giận với họ và phó họ cho kẻ thù để họ bị lưu đày trong xứ của kẻ thù, hoặc xa hay gần. 47Nếu trong đất lưu đày, họ hồi tâm, ăn năn và nài xin với Chúa rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, hành động một cách bướng bỉnh và gian ác;’ 48nếu trong xứ của kẻ thù, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện với Ngài, hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Chúa, 49thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ và thực thi công lý cho họ. 50Xin Chúa tha thứ cho dân Ngài là dân đã phạm tội với Ngài, và tha thứ tất cả sự vi phạm mà họ đã phạm với Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ lưu đày có lòng thương xót họ, 51vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp mà Ngài đã đem ra khỏi Ai Cập, tức là khỏi lò luyện sắt. 52Nguyện mắt Chúa đoái xem đầy tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, lắng tai nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mỗi khi họ kêu cầu với Ngài. 53Lạy Chúa là Đức Giê-hô-va! Chúa đã biệt riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc trên mặt đất để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã tuyên phán qua Môi-se là đầy tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai Cập.”

Sa-lô-môn chúc phước cho hội chúng

54Khi Sa-lô-môn đã dâng lên Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện và nài xin nầy xong thì vua đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. 55Vua đứng và lớn tiếng chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
56“Ca ngợi Đức Giê-hô-va, Đấng đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã phán! Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà Ngài đã phán qua Môi-se, đầy tớ Ngài, thì chẳng có lời nào không ứng nghiệm. 57Cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta; xin Ngài đừng lìa, đừng bỏ chúng ta. 58Cầu xin Ngài giục lòng chúng ta hướng về Ngài, để chúng ta đi trong tất cả đường lối Ngài, tuân giữ những điều răn, luật pháp và mệnh lệnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. 59Nguyện các lời trẫm đã nài xin trước mặt Đức Giê-hô-va sẽ ở bên cạnh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm, để bảo vệ quyền lợi của đầy tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, tùy theo nhu cầu mỗi ngày, 60để muôn dân trên đất biết rằng chính Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chứ chẳng có ai khác. 61Vậy, các ngươi hãy hết lòng trung thành với Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chúng ta, bước đi trong luật pháp, và tuân giữ điều răn của Ngài như các ngươi đã làm ngày nay.”

Sa-lô-môn dâng sinh tế

62Sau đó, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua dâng các sinh tế trước mặt Đức Giê-hô-va. 63Sa-lô-môn dâng sinh tế lên Đức Giê-hô-va gồm hai mươi hai nghìn con bò đực và một trăm hai mươi nghìn con chiên làm tế lễ bình an. Như vậy, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên Đức Giê-hô-va. 64Trong ngày đó, vua biệt riêng ra thánh phần giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, làm nơi dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an, vì bàn thờ bằng đồng để trước mặt Đức Giê-hô-va quá nhỏ, không thể chứa các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an.
65Trong lúc đó, Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua cùng dự lễ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa, cộng tất cả là mười bốn ngày. Thật là một hội chúng đông đảo, từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai Cập. 66Vào ngày thứ tám, vua cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua rồi trở về trại mình, lòng vui mừng phấn khởi về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, đầy tớ Ngài, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.

8

Noau Dững Amut Hĩp Parnai Parkhán

1Chơ puo Sa-lamôn arô máh cũai sốt tễ dũ tỗp, dũ sâu, cớp dũ dống sũ tễ tỗp I-sarel, yỗn toâq rôm pỡ vil Yaru-salem, dŏq dững achu Hĩp Parnai Parkhán tễ vil Si-ôn la Vil Davĩt, cớp dững amut dŏq tâng Dống Sang Toâr. 2Nheq tữh tỗp alới toâq rôm parnơi tâng tangái noau táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh tâng casâi tapul la casâi E-tha-nim. 3-4Tữ máh cũai sốt toâq rôm dũ chơ, máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ dững Hĩp Parnai Parkhán, dếh Dống Sang Aroâiq, cớp máh crơng tâc tâng dống sang ki, chơ amut dŏq tâng Dống Sang Toâr. 5Puo Sa-lamôn cớp máh cũai proai I-sarel toâq rôm choâng moat Hĩp Parnai Parkhán, cớp alới chiau sang cữu cớp ntroŏq sa‑ữi lứq toau tỡ rơi ngih noâng. 6Chơ máh cũai tễng rit sang crang Hĩp Parnai Parkhán amut tâng Dống Sang Toâr, cớp dững dŏq tâng Ntốq Yiang Sursĩ Ỡt pưn khlap chê-rup. 7Khlap chê-rup paliang aloŏh acrúq Hĩp Parnai Parkhán cớp tong crang. 8Tong crang ki cuti lứq; cũai aléq tayứng coah moat Ntốq Tễng Rit, ki bữn hữm pứp tong ki. Ma khân tapoang nhêng tễ coah tiah, ki tỡ bữn hữm. (Tong crang ki noâng níc toau toâq tangái nâi.) 9Tâng clống Hĩp Parnai Parkhán bữn ống bar khlễc tamáu Môi-se khoiq chóq dŏq bo alới ỡt pỡ cóh Si-nai, la ntốq Yiang Sursĩ yỗn santoiq parkhán pỡ cũai proai I-sarel, bo tỗp alới mbỡiq loŏh tễ cruang Ê-yip-tô.
10Toâq máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ ntôm loŏh tễ Ntốq Tễng Rit, bo ki toâp bữn moang ramứl cadớp nheq Dống Sang Toâr, 11cớp tỗp alới tỡ têq pỡq táq ranáq ntrớu noâng, yuaq bữn ang‑ữr tễ Yiang Sursĩ aclaq chũop nheq dống sang. 12Chơ puo Sa-lamôn câu neq: “Ơ Yiang Sursĩ ơi! Anhia khoiq táq yỗn bữn moat mandang, ma anhia rưoh ỡt tâng ramứl cớp tâng ntốq canám. 13Cứq khoiq táq dống sang nêuq o lứq yỗn anhia ỡt, la ntốq yỗn anhia ỡt mantái níc.”

Sa-lamôn Pai Ŏ́c Bốn Yỗn Cũai Proai

14Bo cũai proai ỡt tayứng bân ntốq ki, puo Sa-lamôn to moat chu tỗp alới cớp sễq Yiang Sursĩ satốh ŏ́c bốn puan yỗn tỗp alới. 15Án pai neq: “Lứq khễn Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel; án yống níc parnai án khoiq ữq cớp puo Davĩt mpoaq cứq. Án pai chóq Davĩt neq: 16‘Noap tễ tangái cứq dững aloŏh cũai proai cứq tễ cruang Ê-yip-tô, cứq tỡ bữn rưoh vil léq yũah tâng cruang cutễq tỗp I-sarel dŏq táq dống sang cỡt ntốq sang toam cứq. Ma Davĩt ơi! Cứq khoiq rưoh mới yỗn cỡt sốt máh cũai proai cứq.’”
17Sa-lamôn pai ễn neq: “Davĩt, mpoaq cứq, khoiq aloŏh ngê ễ táq dống sang dŏq sang toam Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel. 18Ma Yiang Sursĩ pai chóq án neq: ‘Lứq o mới chanchớm ễ táq Dống Sang Toâr dŏq sang toam cứq. 19Ma mới la tỡ cỡn cũai táq dống sang yỗn cứq; con samiang mới toâp la cũai táq dống sang yỗn cứq.’
20“Sanua, Yiang Sursĩ táq ariang án khoiq par‑ữq cớp Davĩt mpoaq cứq dŏq cứq bữn cỡt puo tỗp I-sarel pláih mpoaq cứq; cớp cứq khoiq táq Dống Sang Toâr nâi dŏq sang toam Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel. 21Cứq khoiq táq tâng clống dống sang ntốq dŏq Hĩp Parnai Parkhán, cớp bar khlễc tamáu ca chĩc dŏq parnai Yiang Sursĩ parkhán cớp achúc achiac hái, bo Ncháu dững aloŏh tỗp alới tễ cruang Ê-yip-tô.”

Sa-lamôn Câu Sễq Tễ Yiang Sursĩ

22Choâng moat máh cũai proai, Sa-lamôn pỡq tayứng yáng moat prông sang, chơ án sacỡ atĩ achỗn 23cớp câu sễq neq: “Ơ Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel ơi! Lứq tỡ bữn yiang aléq ma ariang anhia tâng paloŏng tỡ la tâng cutễq nâi; anhia yống níc máh parnai anhia khoiq par‑ữq cớp cũai proai anhia, cớp anhia apáh ŏ́c ayooq chóq alới toâq alới trĩh anhia nheq tễ mứt pahỡm. 24Anhia yống níc máh parnai anhia par‑ữq cớp Davĩt mpoaq cứq. Tangái nâi dũ ŏ́c anhia par‑ữq lứq cỡt rapĩeiq. 25Ơ Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel ơi! Sanua, sễq anhia táq máh ŏ́c anhia khoiq par‑ữq cớp mpoaq cứq bo anhia atỡng án neq: ‘Lứq bữn níc muoi noaq cũai tễ tŏ́ng toiq mới bữn cỡt puo tỗp I-sarel, khân con châu mới táq puai máh phễp rit cứq ariang mới khoiq táq.’ 26Ngkíq, Yiang Sursĩ la Ncháu cũai I-sarel ơi! Sanua sễq anhia táq yỗn cỡt rapĩeiq dũ ramứh anhia khoiq ữq cớp puo Davĩt, mpoaq cứq, la cũai táq ranáq anhia.
27“Ơ Yiang Sursĩ ơi! Nŏ́q têq anhia ỡt tâng cốc cutễq nâi? Tam paloŏng la‑a lứq la noâng tỡ bữn dũ yỗn anhia ỡt, casỡn dống sang cứq táq nâi ễn. 28Yiang Sursĩ la Ncháu cứq ơi! Cứq la cũai táq ranáq anhia. Sễq anhia tamứng sưong santoiq cứq câu tangái nâi, cớp sễq anhia ta‑ỡi. 29Sễq anhia nhêng chu Dống Sang Toâr nâi cu sadâu tangái. Yuaq ntốq nâi cỡt ntốq anhia khoiq rưoh dŏq sang toam anhia, sễq anhia tamứng toâq cứq to moat chu Dống Sang Toâr cớp câu sễq anhia rachuai. 30Sễq anhia tamứng sưong santoiq cứq cớp máh cũai proai anhia câu sễq tễ anhia. Toâq tỗp hếq to moat chu dống sang nâi cớp câu sễq tễ anhia, sễq anhia tamứng tễ paloŏng, la ntốq anhia ỡt, cớp táh lôih yỗn tỗp hếq.
31“Toâq bữn noau tếq muoi noaq táq lôih chóq cũai canŏ́h, cớp noau dững án chu prông sang tâng Dống Sang Toâr nâi yỗn án thễ dũan pai án lứq tỡ bữn lôih, 32sễq anhia tamứng tễ pỡng paloŏng, cớp rasữq chuai máh cũai táq ranáq anhia. Sễq anhia yỗn cũai ca táq lôih roap tôt, ma acláh cũai ca tỡ bữn táq lôih.
33“Toâq proai anhia la cũai I-sarel cỡt pê chóq cũai par‑ũal, cỗ tian alới táq lôih chóq anhia, ma khân alới píh loah chu anhia cớp ngin kho sễq anhia táh lôih yỗn tỗp alới pỡ Dống Sang Toâr nâi, 34sễq anhia tamứng tễ paloŏng, cớp sễq anhia táh lôih yỗn máh cũai proai anhia la cũai I-sarel, cớp dững alới chu loah pỡ cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới.
35“Toâq anhia catáng dŏq dỡq mia tỡ yỗn mia sễng cỗ tian cũai proai anhia táq lôih chóq anhia, cớp khân alới to moat chu Dống Sang Toâr cớp ngin kho lôih, cớp ralêq cỡt mứt tamái, dếh câu sễq tễ anhia, 36sễq anhia tamứng tỗp alới, cớp táh lôih yỗn cũai táq ranáq anhia, la máh cũai proai I-sarel, cớp arĩen alới yỗn táq ống ranáq pĩeiq sâng. Ơ Yiang Sursĩ ơi! Sễq anhia yỗn dỡq mia sễng loah pỡ cloong cutễq anhia khoiq chiau yỗn alới ndỡm níc.
37“Toâq bữn ŏ́c panhieih khlac tâng cutễq nâi, tỡ la toâq ỗn, tỡ la máh sarnóh chóh cỡt rúng nheq cỗ tian cuyal phát hang lứq, tỡ la sampứh lam toâq talốh, tỡ la cũai par‑ũal ỡt crŏ́q lavíng vil, tỡ la cỡt rang‑ĩ tacóh, 38sễq anhia tamứng sưong santoiq tỗp alới câu sễq. Khân cũai aléq tễ tỗp I-sarel ma bữn mứt pahỡm túh ngua cớp sacỡ atĩ chu Dống Sang Toâr nâi toâq án câu sễq, 39sễq anhia tamứng tễ paloŏng la ntốq anhia ỡt. Sễq anhia táh lôih yỗn alới cớp rachuai tỗp alới. Ống anhia toâp dáng nheq tâng mứt pahỡm cũai chanchớm; sễq anhia táq chóq dũ náq cũai bữn roap puai loah ranáq alới táq. 40Táq ngkíq têq alới sa‑âm anhia mantái níc bo alới ỡt tâng cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới.
41-42“Toâq bữn cũai tễ cruang yơng tễ cruang I-sarel bữn sâng tễ ramứh ranoâng anhia cớp tễ ranáq toâr lứq anhia khoiq táq yỗn cũai proai anhia, chơ alới toâq rôm sang cớp câu sễq tễ anhia pỡ Dống Sang Toâr nâi tê, 43sễq anhia tamứng tễ paloŏng la ntốq anhia ỡt, cớp chuai alới, dŏq yỗn cũai chũop cốc cutễq nâi bữn dáng cớp yám noap anhia, machớng tỗp I-sarel la proai anhia tê. Chơ tỗp alới bữn dáng Dống Sang Toâr cứq khoiq táq la ntốq yỗn máh cũai toâq rôm sang toam anhia.
44“Toâq anhia ớn cũai proai anhia pỡq chíl cũai par‑ũal alới pỡ ntốq aléq alới ỡt, khân alới to moat chu vil anhia khoiq rưoh cớp chu Dống Sang Toâr cứq khoiq táq nâi, chơ câu sễq tễ anhia, 45sễq anhia tamứng tễ paloŏng sưong santoiq alới câu sễq, cớp rachuai alới yỗn chíl riap.
46“Toâq cũai proai anhia táq lôih chóq anhia (yuaq tỡ bữn noau ma tỡ bữn táq lôih), cớp anhia sâng cutâu mứt cớp chiau yỗn cũai par‑ũal chíl riap alới, cớp cỗp dững alới pỡ cruang canŏ́h yơng lứq, 47ma khân cũai proai anhia câu sễq loah tễ anhia tễ cruang ki, sễq anhia tamứng sưong santoiq alới. Khân tỗp alới lêq loah mứt pahỡm tamái, chơ ngin kho lôih tỗp alới khoiq táq chóq anhia, cớp pai: ‘Hếq la cũai ngian, cũai loâi lứq,’ sễq anhia tamứng sưong máh santoiq tỗp alới câu. 48Cớp khân tỗp alới píh loah chu anhia nheq tễ mứt pahỡm pỡ cruang cutễq alới ỡt ki, cớp alới to moat chu cruang cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới cớp chu vil anhia khoiq rưoh, cớp chu Dống Sang Toâr cứq khoiq táq yỗn anhia, 49sễq anhia tamứng tễ paloŏng, la ntốq anhia ỡt, la sưong santoiq tỗp alới câu. Sễq anhia sarũiq táq cớp táh lôih yỗn alới. 50Sễq anhia táh nheq máh lôih cớp ranáq sâuq alới khoiq táq chóq anhia, cớp sễq anhia yỗn máh cũai par‑ũal alới sâng sarũiq táq loah alới tê. 51Tỗp alới cỡt cũai proai anhia, la cũai anhia khoiq dững aloŏh tễ cruang Ê-yip-tô la ntốq samoât lo sarốc tac.
52“Ơ Yiang Sursĩ la Ncháu hếq ơi! Sễq anhia nhêng chu cũai proai I-sarel cớp puo tỗp alới na mứt pahỡm sarũiq táq alới mantái níc; toâq alới câu sễq anhia rachuai, ki sễq anhia tamứng santoiq alới câu sễq. 53Tễ nheq máh tỗp cũai tâng cốc cutễq nâi anhia khoiq rưoh tỗp alới dŏq cỡt proai anhia, machớng anhia khoiq atỡng na Môi-se, la cũai táq ranáq anhia, bo anhia la Ncháu Nheq Tữh Cũai dững aloŏh achúc achiac hếq tễ cruang Ê-yip-tô.”

Sa-lamôn Atỡng Ŏ́c Parsốt

54Toâq moâm puo Sa-lamôn câu sễq tễ Yiang Sursĩ, chơ án yuor tayứng yáng moat prông sang bân ntốq án ỡt sacốh racớl cớp sacỡ atĩ. 55Án câu sễq ŏ́c bốn yỗn máh cũai I-sarel tâng ntốq ki na sưong casang. Án pai neq: 56“Lứq khễn Yiang Sursĩ ca rachuai máh cũai proai án yỗn bữn ỡt ien khễ, ĩn án khoiq par‑ữq dŏq chơ. Án yống níc máh santoiq án khoiq par‑ữq na Môi-se, la cũai táq ranáq án. 57Sễq Yiang Sursĩ la Ncháu hếq, ỡt cớp tỗp hếq, machớng án khoiq ỡt cớp achúc achiac hếq chơ. Sễq án chỗi táh hếq. 58Sễq Yiang Sursĩ chuai tỗp hếq yỗn têq trĩh níc án, yỗn hếq tamoong dŏq táq ranáq án yỗn pĩeiq lứq; cớp dŏq hếq yống níc phễp rit, dếh santoiq án khoiq patâp yỗn achúc achiac hếq tễ nhũang chơ. 59Sễq Yiang Sursĩ, la Ncháu hếq, sanhữ níc máh santoiq cứq khoiq câu sễq nâi! Sễq án sâng sarũiq chóq cũai proai I-sarel cớp puo alới, cớp yỗn máh ŏ́c alới cóq bữn cu rangái. 60Ngkíq máh cũai proai chũop cruang cutễq nâi têq dáng ống Yiang Sursĩ toâp la Ncháu, tỡ cỡn yiang canŏ́h. 61Tễ nâi chumát, sễq nheq tữh anhia tanoang tapứng níc chóq Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp hái na trĩh phễp rit án cớp dũ ŏ́c án khoiq patâp, ariang anhia táq puai tâng tangái nâi.”

Chiau Sang Dống Sang Toâr

62Chơ puo Sa-lamôn cớp dũ náq cũai I-sarel chiau sang máh crơng yỗn Yiang Sursĩ. 63Sa-lamôn kiac ntroŏq 22,000 lám, cớp cữu 120,000 lám, chiau sang dŏq cỡt ratoi. Puo Sa-lamôn cớp nheq tữh cũai proai chiau sang Dống Sang Toâr ki yỗn Yiang Sursĩ. 64Tâng tangái ki Sa-lamôn chiau sang dếh nchŏh yáng moat Dống Sang Toâr. Pỡ ntốq ki án bốh charán dŏq chiau sang, chiau sang máh thữ racáu, cớp chiau sang nsễng charán dŏq cỡt crơng sang yỗn cỡt ratoi. Án táq ngkíq yuaq prông sang sapoan án khoiq táq tỡ bữn toâr dũ yỗn dŏq máh charán ễ bốh chiau sang, máh thữ racáu, cớp máh nsễng dŏq cỡt ratoi.
65Tâng tapul tangái puo Sa-lamôn cớp máh cũai proai I-sarel táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh. Máh cũai toâq rôm clứng lứq, án ca toâq tễ parsốt cruang coah angia pỡng la ntốq raláp Hamat, cớp tễ raloan cruang coah angia pưn, la cruang Ê-yip-tô. 66Tâng tangái tacual puo Sa-lamôn yỗn máh cũai proai píh chu loah pỡ dống alới bữm. Dũ náq tỗp alới khễn puo Sa-lamôn; chơ píh chu bũi óh lứq cỗ Yiang Sursĩ khoiq yỗn ŏ́c bốn pỡ puo Davĩt, la cũai táq ranáq án, dếh máh cũai proai I-sarel.