8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

(II Sử 5:2 – 6:2)

1Bấy giờ, vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và trưởng gia tộc của dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem, để rước Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. 2Mọi người nam của Y-sơ-ra-ên đều tập hợp bên vua Sa-lô-môn vào tháng Ê-tha-nim, là tháng bảy để dự lễ. 3Khi tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến thì các thầy tế lễ khiêng Hòm Giao Ước lên, 4và họ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đi, cùng với Lều Hội Kiến và tất cả các vật dụng thánh trong Lều. Các thầy tế lễ và người Lê-vi đem các thứ ấy lên.
5Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đã tập hợp bên vua, đứng trước Hòm Giao Ước cùng dâng sinh tế chiên và bò rất nhiều, đến nỗi không thể đếm được. 6Các thầy tế lễ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đặt vào vị trí bên trong cùng của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi đặt Hòm Giao Ước nên che phủ Hòm Giao Ước và các đòn khiêng. 8Các đòn khiêng dài đến nỗi từ Nơi Thánh ở ngay trước Nơi Chí Thánh, người ta có thể trông thấy đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9Trong Hòm Giao Ước không có gì khác ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào tại Hô-rếp, nơi Đức Giê-hô-va đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập.
10Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh thì có đám mây tràn đầy đền thờ của Đức Giê-hô-va, 11đến nỗi do đám mây ấy mà các thầy tế lễ không thể tiếp tục hành lễ được, vì vinh quang của Đức Giê-hô-va tràn ngập đền thờ của Ngài.
12Bấy giờ, Sa-lô-môn cầu nguyện:
  “Đức Giê-hô-va đã phán rằng
   Ngài ngự trong đám mây dày đặc.
  13Nhưng con đã xây cho Ngài một đền thờ nguy nga,
   Một nơi để Ngài ngự đời đời.”

Diễn từ của vua Sa-lô-môn

14Rồi vua quay mặt lại chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong khi mọi người đang đứng. 15Vua nói: “Ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha trẫm, và dùng chính tay Ngài làm ứng nghiệm lời ấy. Ngài phán rằng: 16‘Từ ngày Ta đã đem dân Ta là Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một đền thờ cho danh Ta ngự tại đó. Nhưng Ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 17Lúc ấy, Đa-vít, cha trẫm, có ý định xây cất một đền thờ cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, cha trẫm, rằng: ‘Con có ý định xây cất một đền thờ cho danh Ta là điều tốt. 19Tuy nhiên, con sẽ không xây cất đền thờ ấy đâu, nhưng con của con, do con sinh ra, sẽ xây cất đền thờ cho danh Ta.’ 20Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán hứa, vì trẫm đã kế vị Đa-vít, cha trẫm, và ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đúng như Đức Giê-hô-va đã phán. Trẫm đã xây cất đền thờ nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21Tại đó, trẫm đã chuẩn bị một chỗ để đặt Hòm Giao Ước, trong đó có giao ước của Đức Giê-hô-va, là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta khi đem họ ra khỏi đất Ai Cập.”

Lời cầu nguyện cung hiến của Sa-lô-môn

22Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời và cầu nguyện rằng: 23“Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Không có thần nào trên trời cao kia hoặc dưới đất thấp nầy giống như Ngài. Chúa giữ giao ước và lòng nhân từ với các đầy tớ Ngài, là những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 24Chúa đã giữ lời Ngài phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Chúa phán hứa thì tay Chúa đã thực hiện như đã có ngày nay. 25Vậy bây giờ, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin giữ lời Chúa đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Nếu con cháu của con cẩn thận trong đường lối mình, bước đi trước mặt Ta như con đã bước đi, thì trước mặt Ta, con sẽ không hề thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đâu.’ 26Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin Chúa làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con.
27Nhưng thật ra Đức Chúa Trời có ngự trên đất nầy chăng? Kìa, các tầng trời, ngay cả trời của các tầng trời cũng không thể chứa Ngài được, huống chi đền thờ nầy mà con đã xây cất! 28Dù vậy, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con! Xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của đầy tớ Ngài, xin đoái nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà hôm nay đầy tớ Ngài đang dâng lên trước mặt Ngài. 29Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là nơi Chúa đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời khẩn nguyện của đầy tớ Ngài hướng về nơi nầy mà kêu cầu. 30Xin Chúa lắng nghe lời khẩn cầu mà đầy tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài hướng về nơi nầy cầu nguyện. Từ nơi ngự của Chúa trên các tầng trời, xin Chúa đoái nghe và tha thứ cho.
31Nếu có ai phạm tội với người lân cận mình và bị buộc phải thề, nên người ấy đến thề trước bàn thờ của Chúa trong đền thờ nầy, 32thì xin Chúa trên trời lắng nghe, hành động và phân xử cho các đầy tớ Ngài, kết án kẻ có tội, khiến nó phải chịu lấy hậu quả của tội lỗi mình, và xưng công chính cho người công chính bằng cách ban thưởng theo sự công chính của người ấy.
33Khi Y-sơ-ra-ên, con dân của Ngài, bị kẻ thù đánh bại vì phạm tội với Ngài, nếu họ trở lại với Ngài, xưng nhận danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Ngài trong đền thờ nầy, 34thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35Khi các tầng trời bị đóng chặt, không có mưa vì họ đã phạm tội với Chúa, nếu họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Chúa, lìa bỏ tội lỗi mình vì Chúa đã sửa phạt họ, 36thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho các đầy tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin Chúa chỉ cho họ con đường chính đáng mà họ phải đi, và cho mưa rơi trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37Khi trong xứ có đói kém, dịch bệnh, hoặc hạn hán, nấm mốc, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù vây hãm các cổng thành của xứ, hoặc có bất cứ tai họa, bệnh tật gì; 38nếu có một người hoặc toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình, và giơ tay ra hướng về đền thờ nầy mà cầu nguyện, khẩn xin bất luận điều gì, 39thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe, tha thứ, hành động và báo trả cho mỗi người tùy theo đường lối của họ, và theo những gì Chúa biết trong lòng họ, vì chỉ một mình Chúa biết rõ lòng người; 40để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời, khi họ sống trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
41Ngoài ra, đối với người ngoại quốc là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì nghe danh Ngài nên từ xứ xa đến 42(vì họ đã nghe về uy danh của Chúa, về tay quyền năng và cánh tay giơ thẳng ra của Ngài). Khi họ đến cầu nguyện trong đền thờ nầy, 43thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe và làm cho họ mọi điều họ cầu xin Ngài, để muôn dân trên đất nhận biết danh Chúa và kính sợ Ngài giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và để người ta biết rằng danh Chúa được kêu cầu nơi đền thờ mà con đã xây cất.
44Khi dân của Chúa ra trận chiến đấu với quân thù ở bất cứ nơi nào Chúa sai họ đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va hướng về thành Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Ngài, 45thì xin Chúa trên trời lắng nghe các lời cầu nguyện và nài xin của họ mà thực thi công lý cho họ.
46Khi họ phạm tội với Chúa — vì chẳng có người nào không phạm tội — khiến Chúa nổi giận với họ và phó họ cho kẻ thù để họ bị lưu đày trong xứ của kẻ thù, hoặc xa hay gần. 47Nếu trong đất lưu đày, họ hồi tâm, ăn năn và nài xin với Chúa rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, hành động một cách bướng bỉnh và gian ác;’ 48nếu trong xứ của kẻ thù, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện với Ngài, hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Chúa, 49thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ và thực thi công lý cho họ. 50Xin Chúa tha thứ cho dân Ngài là dân đã phạm tội với Ngài, và tha thứ tất cả sự vi phạm mà họ đã phạm với Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ lưu đày có lòng thương xót họ, 51vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp mà Ngài đã đem ra khỏi Ai Cập, tức là khỏi lò luyện sắt. 52Nguyện mắt Chúa đoái xem đầy tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, lắng tai nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mỗi khi họ kêu cầu với Ngài. 53Lạy Chúa là Đức Giê-hô-va! Chúa đã biệt riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc trên mặt đất để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã tuyên phán qua Môi-se là đầy tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai Cập.”

Sa-lô-môn chúc phước cho hội chúng

54Khi Sa-lô-môn đã dâng lên Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện và nài xin nầy xong thì vua đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. 55Vua đứng và lớn tiếng chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
56“Ca ngợi Đức Giê-hô-va, Đấng đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã phán! Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà Ngài đã phán qua Môi-se, đầy tớ Ngài, thì chẳng có lời nào không ứng nghiệm. 57Cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta; xin Ngài đừng lìa, đừng bỏ chúng ta. 58Cầu xin Ngài giục lòng chúng ta hướng về Ngài, để chúng ta đi trong tất cả đường lối Ngài, tuân giữ những điều răn, luật pháp và mệnh lệnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. 59Nguyện các lời trẫm đã nài xin trước mặt Đức Giê-hô-va sẽ ở bên cạnh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm, để bảo vệ quyền lợi của đầy tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, tùy theo nhu cầu mỗi ngày, 60để muôn dân trên đất biết rằng chính Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chứ chẳng có ai khác. 61Vậy, các ngươi hãy hết lòng trung thành với Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chúng ta, bước đi trong luật pháp, và tuân giữ điều răn của Ngài như các ngươi đã làm ngày nay.”

Sa-lô-môn dâng sinh tế

62Sau đó, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua dâng các sinh tế trước mặt Đức Giê-hô-va. 63Sa-lô-môn dâng sinh tế lên Đức Giê-hô-va gồm hai mươi hai nghìn con bò đực và một trăm hai mươi nghìn con chiên làm tế lễ bình an. Như vậy, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên Đức Giê-hô-va. 64Trong ngày đó, vua biệt riêng ra thánh phần giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, làm nơi dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an, vì bàn thờ bằng đồng để trước mặt Đức Giê-hô-va quá nhỏ, không thể chứa các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an.
65Trong lúc đó, Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua cùng dự lễ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa, cộng tất cả là mười bốn ngày. Thật là một hội chúng đông đảo, từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai Cập. 66Vào ngày thứ tám, vua cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua rồi trở về trại mình, lòng vui mừng phấn khởi về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, đầy tớ Ngài, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.

8

Tơlơi Ba Mŭt Hip Tơlơi Pơgop Amăng Sang Yang Yahweh

(2 Hră Ruai 5:2–6:2)

1Tơdơi kơ anŭn, pơtao Solomôn iâu pơƀut rai ƀơi anăp ñu amăng plei phŭn Yerusalaim abih bang ƀing kŏng tha Israel, abih bang ƀing djă̱ akŏ ƀing kơnung djuai laih anŭn ƀing ba akŏ ƀing djuai Israel, kiăng kơ ba mŭt amăng sang yang Yahweh hip tơlơi pơgop Yahweh mơ̆ng anih Ziôn, jing mơ̆ng Plei Dawid anŭn. 2Tui anŭn, ƀơi bơyan phet amăng blan Ethanim, jing blan tal tơjuh, abih bang ƀing đah rơkơi Israel rai hrŏm hơbĭt hăng pơtao Solomôn yơh.
3Tơdang abih bang ƀing kŏng tha Israel hơmâo rai laih, ƀing khua ngă yang yŏng đĭ hip tơlơi pơgop Yahweh, 4laih anŭn ƀing gơñu ba đĭ hip anŭn laih anŭn Sang Khăn Pơjơnum hrŏm hăng abih bang dram gơnam rơgoh hiam pioh yua amăng sang anŭn. Ƀing khua ngă yang laih anŭn ƀing Lêwi pơkŏn čơkŭng đĭ khul gơnam anŭn truh pơ sang yang Yahweh. 5Hlak anŭn, pơtao Solomôn wơ̆t hăng abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ hrŏm hăng ñu dŏ dơ̆ng ƀơi anăp hip, pơdjai hĭ khul triu laih anŭn khul rơmô lu biă mă kiăng kơ ngă yang, tơl ƀing gơñu ƀu dưi tĭng yap ôh.
6Giŏng anŭn, ƀing khua ngă yang ba mŭt hip tơlơi pơgop Yahweh pơ sang yang laih anŭn pioh amăng gah lăm Anih Rơgoh Hiam Hloh, jing gah yŭ kơ čăng dua boh rup čerub. 7Dua boh rup čerub anŭn blang čăng gơñu gah ngŏ kơ hip jing go̱m hĭ hip anŭn wơ̆t hăng dua ƀĕ gai čơkŭng hip mơ̆n. 8Khul gai čơkŭng anŭn rơyong ñu glông biă mă tơl arăng dưi ƀuh črăn rơnuč mơ̆ng Anih Rơgoh Hiam, jing anih gah anăp kơ Anih Rơgoh Hiam Hloh. Samơ̆ arăng ƀu thâo ƀuh ôh mơ̆ng anih pơkŏn gah rơngiao kơ Anih Rơgoh Hiam. Sĭt khul gai čơkŭng anŭn ăt dŏ pơ anŭn mơ̆n tă anai. 9Ƀơi mông anŭn, ƀu hơmâo gơnam hơget ôh amăng hip anŭn rơngiao kơ dua boh hơnăl boh pơtâo Môseh hơmâo pioh mŭt laih amăng anŭn ƀơi anih Hôrêb. Hôrêb jing anih Yahweh pơjing laih tơlơi pơgop hăng ƀing Israel tơdơi kơ ƀing gơñu tơbiă laih mơ̆ng lŏn čar Êjip.
10Tơdang ƀing khua ngă yang tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng Anih Rơgoh Hiam, hơmâo kơthul pơbă hĭ sang yang Yahweh. 11Tui anŭn, ƀing khua ngă yang ƀu thâo mŭt glaĭ mă bruă ngă yang gơñu ôh yuakơ hơmâo kơthul đơi, anŭn jing yuakơ tơlơi ang yang Yahweh pơbă hĭ sang yang Ñu jing hĭ bơngač biă mă yơh.
12Giŏng anŭn, Solomôn laĭ tui anai, “Ơ Yahweh ăh, Ih hơmâo pơtă laih, Ih či dŏ amăng anih kơthul kơnăm. 13Kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih sa boh sang yang guh kơang kơ Ih, jing anih kơ Ih dŏ hlŏng lar.”

Pơtao Solomôn Bơni Hiam Hăng Ƀing Ană Plei Israel

(2 Hră Ruai 6:3-11)

14Tơdang abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ dŏ dơ̆ng pơ anŭn, pơtao Solomôn wir glaĭ laih anŭn bơni hiam kơ ƀing gơñu yơh. 15Ñu laĭ tui anai:
“Bơni hơơč kơ Yahweh, Ơi Adai ƀing Israel! Tơlơi Ñu ƀuăn kơ ama kâo Dawid hăng amăng bah Ñu pô, Ñu hơmâo pơgiŏng hĭ laih hăng tơngan Ñu pô yơh. Ñu ƀuăn laih tui anai,
16‘Čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi Kâo ba tơbiă laih ƀing ană plei Kâo Israel mơ̆ng lŏn čar Êjip, Kâo ƀu hơmâo ruah mă ôh sa boh plei pă ôh mơ̆ng ƀing kơnung djuai Israel kiăng kơ ƀing gơñu pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ ƀing gơñu pơpŭ pơyom Anăn Kâo pơ anŭn, samơ̆ Kâo hơmâo ruah mă laih ih, Dawid, kiăng kơ git gai wai lăng ƀing ană plei Kâo Israel.’ ”
17Pơtao Solomôn pơhiăp dơ̆ng tui anai,
Ama kâo Dawid hơmâo pơmĭn pơphŭn laih amăng pran jua ñu kiăng pơdơ̆ng đĭ sa boh sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel.
18Samơ̆ Yahweh pơhiăp laih hăng ama kâo Dawid tui anai, “Hiam yơh ih hơmâo tơlơi anŭn amăng jua pơmĭn ih kiăng pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo, yuakơ anŭn jing amăng pran jua ih yơh. 19Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀu djơ̆ ih ôh jing pô či pơdơ̆ng đĭ sang yang. Pô či pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo jing ană đah rơkơi ih, jing pô tơbiă rai mơ̆ng drah kơtăk ih pô yơh.”
20Yahweh hơmâo djă̱ pioh tơlơi Ñu ƀuăn laih. Kâo hơmâo đĭ ngă pơtao tŏ tui laih ama kâo Dawid laih anŭn ră anai kâo jing pơtao ƀing Israel, kar hăng tơlơi Yahweh ƀuăn brơi laih. Kâo ăt hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih mơ̆n sang yang anŭn kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel. 21Sĭt kâo hơmâo pơkra laih anih pioh kơ hip tơlơi pơgop Yahweh pơ anŭn. Amăng hip anŭn yơh Môseh pioh mŭt dua boh hơnăl pơtâo hơmâo tơlơi pơgop Yahweh, jing tơlơi Ñu hơmâo pơjing laih hăng ƀing ơi adon ta tơdang Ñu ba tơbiă laih ƀing gơ̆ mơ̆ng lŏn čar Êjip.

Tơlơi Pơtao Solomôn Iâu Laĭ Pơyơr Pơkô̆ Sang Yang Yahweh

(2 Hră Ruai 6:12-42)

22Giŏng anŭn, pơtao Solomôn dŏ dơ̆ng ƀơi anăp kơnưl Yahweh jing gah anăp kơ abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ laih anŭn ñu yơr đĭ tơngan ñu pơ adai adih, 23laih anŭn iâu laĭ tui anai:
  “Ơ Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel hơi,
   sĭt ƀu hơmâo ôh Ơi Adai pơkŏn hrup hăng Ih amăng adai gah ngŏ adih ƀôdah ƀơi gah yŭ lŏn tơnah anai.
  Kơnơ̆ng hơjăn Ih đôč yơh jing Pô djă̱ pioh tơlơi pơgop Ih
   laih anŭn pơrơđah tơlơi khăp hiam klă Ih kơ ƀing ding kơna Ih,
   jing ƀing ăt đuaĭ tui amăng jơlan Ih hăng abih pran jua.
  24Hrơi anai, Ih hơmâo djă̱ pioh laih tơlơi Ih ƀuăn hăng ding kơna Ih Dawid jing ama kâo.
  Sĭt hăng amăng bah Ih yơh Ih hơmâo ƀuăn laih,
   laih anŭn hăng tơngan Ih yơh Ih hơmâo pơgiŏng hĭ laih.

  25“Ră anai, Ơ Yahweh jing Ơi Adai ƀing Israel hơi,
   djă̱ pioh brơi bĕ kơ ding kơna Ih Dawid ama kâo khul tơlơi Ih ƀuăn laih hăng ñu dơ̆ng tơdang Ih laĭ tui anai,
  ‘Ih ƀu či rơngiă hĭ ôh pô ană tơčô ih dŏ ƀơi grê pơtao kiăng kơ git gai wai lăng lŏn čar Israel,
   tơdah ƀing ană tơčô ih anŭn kơnơ̆ng răng pơñen rơbat tŏng ten ƀơi anăp Kâo
   kar hăng tơlơi ih hơmâo ngă laih.’
  26Hơnŭn yơh ră anai, Ơ Ơi Adai ƀing Israel hơi,
   brơi bĕ boh hiăp Ih ƀuăn laih hăng ding kơna Ih Dawid ama kâo krep truh sĭt.

  27“Samơ̆ Ih, jing Ơi Adai, či dŏ ƀơi lŏn tơnah anai biă mă hă?
  Sĭt khul tal adai wơ̆t hăng adai glông hloh ăt kŏn dưi krư̆ kăl hĭ Ih mơ̆n.
  Tui anŭn, sang yang kâo hơmâo pơdơ̆ng laih anai jing anet biă mă yơh!
  28Samơ̆ rơkâo kơ Ih pơđi̱ng tơngia bĕ kơ tơlơi ding kơna Ih kâo anai iâu laĭ laih anŭn kơ tơlơi kâo kwưh rơkâo kơ tơlơi khăp pap, Ơ Yahweh Ơi Adai kâo hơi.
   Hơmư̆ bĕ tơlơi bơni hơơč laih anŭn tơlơi iâu laĭ ding kơna Ih kâo anai hlak iâu laĭ ƀơi anăp Ih hrơi anai.
  29Ih laĭ laih Ih či ruah sang yang kiăng kơ pioh Anăn Ih pơ anŭn,
   tui anŭn kwưh kiăng mơta Ih lăng trŭn pơ sang yang anai hrơi mlam,
   kiăng kơ Ih dưi hơmư̆ tơlơi ding kơna Ih kâo anai iâu laĭ anăp nao pơ anih anai.
  30Hơmư̆ bĕ tơlơi kwưh rơkâo kơ tơlơi pap mơ̆ng ding kơna Ih kâo anai laih anŭn mơ̆ng ană plei Ih Israel
   tơdang ƀing gơmơi iâu laĭ anăp nao pơ anih anai.
  Hơmư̆ bĕ mơ̆ng adai adih, jing anih Ih dŏ,
   laih anŭn tơdang Ih hơmư̆, rơkâo Ih pap brơi bĕ.

  31“Tơdang arăng phŏng kơđi kơ hlơi pô pơsoh hĭ pô re̱ng gah ñu
   laih anŭn ñu khŏm rai ƀơi anăp kơnưl ngă yang Ih amăng sang yang anai,
   kiăng kơ ƀuăn rơ̆ng kơ tơlơi ñu ƀu ngă soh ôh,
  32tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ hăng laĭ glaĭ đa bĕ mơ̆ng adai adih,
   laih anŭn phat brơi bĕ tŏng krah dua čô ding kơna ih anŭn.
  Giŏng anŭn, klă̱ kơđi bĕ mơnuih ngă soh laih anŭn pioh glaĭ bĕ ƀơi akŏ ñu pô hơget tơlơi ñu hơmâo ngă sat laih,
   samơ̆ pơhaih brơi bĕ pô ƀu ngă soh jing hĭ agaih yuakơ tơlơi tơpă hơnơ̆ng gơ̆.

  33“Tơdang ƀing rŏh ayăt blah juă hĭ ƀing ană plei Ih Israel,
   yuakơ ƀing gơ̆ hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih,
  tơdah ƀing gơ̆ wơ̆t glaĭ pơ Ih
   laih anŭn pơhaih Ih jing Ơi Adai ƀing gơ̆,
   iâu laĭ laih anŭn kwưh pơđu̱r kơ Ih amăng sang yang anai,
  34tui anŭn rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih
   laih anŭn pap brơi tơlơi soh ƀing ană plei Ih Israel anai.
  Giŏng anŭn, ba glaĭ bĕ ƀing gơ̆ pơ anih lŏn anai,
   jing anih lŏn Ih hơmâo pha brơi laih kơ ƀing ơi adon ƀing gơ̆.

  35“Tơdang khul tal adai adih kho̱ng hăng ƀu hơjan ôh
   yuakơ ƀing ană plei Ih hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih,
  tơdah ƀing gơñu iâu laĭ anăp nao pơ anih anai,
   pơhaih Ih jing Ơi Adai gơñu laih anŭn đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng khul tơlơi soh sat gơñu
   yuakơ Ih hơmâo pơruă hĭ laih ƀing gơñu,
  36tui anŭn rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih
   laih anŭn pap brơi tơlơi soh ƀing ding kơna Ih, jing ană plei Ih Israel anai.
  Pơtô bĕ kơ ƀing gơñu jơlan djơ̆ kiăng kơ hơdip
   laih anŭn mơit rai bĕ ia hơjan ƀơi anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ană plei Ih jing gơnam kŏng ngăn gơñu anŭn.

  37“Tơdang tơlơi ư̆ rơpa ƀôdah tơlơi kli̱n khe̱ng truh ƀơi anih lŏn anai,
   angĭn pơiă ƀôdah kơmao mơoai, khul kơtop ƀôdah khul kơtop kơplŏng pơrai hĭ gơnam tăm,
  ƀôdah tơdang ƀing rŏh ayăt wang blah ƀing gơñu amăng khul plei pla gơñu,
   hơget tơlơi răm rai ƀôdah hơget tơlơi ruă tơnap truh tơl,
  38tui anŭn tơdah kơnơ̆ng sa čô đôč ƀôdah abih bang ƀing ană plei Ih Israel iâu laĭ ƀôdah kwưh rơkâo,
   yuakơ pơmưn tơlơi ruă rơngot amăng pran jua,
   laih anŭn yơr đĭ tơngan anăp nao pơ sang yang anai,
  39tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih, jing anih Ih dŏ.
   Hơmư̆ brơi đa laih anŭn pap brơi bĕ.
  Ngă bĕ kơ rĭm čô tui hăng abih bang tơlơi ñu ngă,
   yuakơ Ih thâo krăn laih pran jua ñu,
   sĭt kơnơ̆ng hơjăn Ih yơh thâo krăn abih bang pran jua mơnuih mơnam.
  40Tui anŭn yơh, ƀing gơñu či huĭ pơpŭ kơ Ih amăng abih tơlơi hơdip gơñu
   amăng anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ơi adon gơmơi anai.

  41“Bơ kơ ƀing tuai jing ƀing ƀu lŏm ôh kơ ană plei Ih Israel,
   đơđa ƀing gơñu či rai mơ̆ng anih lŏn ataih
   yuakơ ƀing gơñu hơmư̆ kơ tơlơi hing ang anăn Ih.
  42Sĭt mơnuih mơnam či hơmư̆ anăn prŏng prin Ih,
   laih anŭn khul tơlơi mơsêh mơyang Ih ngă laih hăng tơlơi dưi kơtang laih anŭn hơpăl tơngan Ih yơr tơbiă,
   laih anŭn ƀing gơñu či rai iâu laĭ anăp nao pơ sang yang anai.
  43Tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih, jing mơ̆ng anih Ih dŏ,
   laih anŭn ngă brơi bĕ hơget tơlơi pô tuai anŭn rơkâo kơ Ih,
   kiăng kơ abih bang mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai dưi đaŏ kơnang kơ anăn Ih laih anŭn huĭ pơpŭ kơ Ih,
  kar hăng ană plei Ih pô jing ƀing Israel huĭ pơpŭ kơ Ih,
   laih anŭn kiăng kơ ƀing gơñu dưi thâo krăn sĭt sang yang anai kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ jing anih pơpŭ pơyom kơ anăn Ih yơh.

  44“Tơdang ƀing ană plei Ih nao pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing rŏh ayăt gơñu,
   pơpă anih Ih pơkiaŏ ƀing gơñu nao,
  laih anŭn tơdang ƀing gơñu iâu laĭ kơ Ih anăp nao pơ plei Ih hơmâo ruah laih anai,
   laih anŭn anăp nao pơ sang yang Ih anai kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih
   kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih,
  45tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih kơ tơlơi ƀing gơ̆ iâu laĭ laih anŭn kwưh rơkâo kơ tơlơi pap
   laih anŭn ngă bĕ tơlơi tơpă hơnơ̆ng kơ ƀing gơñu.

  46“Ƀu hơmâo hlơi pô ôh ƀu ngă soh.
   Tui anŭn, tơdang ƀing ană plei Ih ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih,
  năng ai Ih či hil biă mă kơ ƀing gơñu tơl Ih jao hĭ ƀing gơñu kơ rŏh ayăt,
   jing ƀing mă hĭ ƀing gơ̆ jing ƀing mơnă amăng anih lŏn gơñu pô, jing anih ataih ƀôdah jĕ.
  47Tơdơi kơ anŭn, năng ai ƀing gơñu pơplih hĭ jua pơmĭn gơñu jing amăng anih lŏn arăng mă ƀing gơñu jing mơnă anŭn,
   laih anŭn ƀing gơñu kơhma̱l hăng kwưh rơkâo ƀơi Ih amăng anih lŏn ƀing blah juă gơñu tui anai,
  ‘Ƀing gơmơi hơmâo ngă soh laih;
   ƀing gơmơi hơmâo ngă laih tơlơi wĕ wŏ;
   ƀing gơmơi hơmâo ngă laih tơlơi sat ƀai.’
  48Tơdah ƀing gơñu wơ̆t glaĭ pơ Ih hăng abih jua bơngăt gơñu
   amăng anih lŏn ƀing rŏh ayăt gơñu anŭn, jing ƀing mă laih ƀing gơñu ngă ƀing mơnă,
  laih anŭn tơdah ƀing gơñu iâu laĭ ƀơi Ih anăp nao pơ anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ơi adon gơñu,
   anăp nao pơ plei Ih hơmâo ruah laih anai,
   laih anŭn anăp nao pơ sang yang kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Ih,
  49tui anŭn mơ̆ng anih adai adih, jing anih dŏ Ih,
   rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ tơlơi ƀing gơñu iâu laĭ kwưh rơkâo kơ tơlơi pap
   laih anŭn ngă bĕ tơlơi tơpă hơnơ̆ng kơ ƀing gơñu.
  50Rơkâo kơ Ih pap brơi bĕ ƀing ană plei Ih,
   jing ƀing hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ laih hăng Ih.
  Rơkâo kơ Ih pap brơi bĕ abih bang khul tơlơi pơkơdơ̆ng gơñu hơmâo ngă laih kơ Ih,
   laih anŭn ngă kơ ƀing blah juă gơñu ăt pơrơđah brơi kơ ƀing gơ̆ tơlơi pap mơ̆n.
  51Rơkâo kơ Ih ngă bĕ khul tơlơi anŭn yuakơ ƀing gơ̆ jing ƀing ană plei Ih laih anŭn jing kŏng ngăn Ih,
   jing ƀing Ih hơmâo ba tơbiă laih mơ̆ng čar Êjip,
   jing tơbiă mơ̆ng anih lŏn kar hăng gŏ apui pơsơi riă anŭn.

  52“Kwưh kiăng kơ mơta Ih blang lăng brơi ƀơi tơlơi kâo, ding kơna Ih, kwưh rơkâo
   laih anŭn ƀơi tơlơi ƀing Israel jing ƀing ană plei Ih kwưh rơkâo.
  Kwưh kiăng kơ Ih hơmư̆ bĕ ƀing gơ̆
   ƀơi mông ƀing gơ̆ iâu kwưh kơ Ih.
  53Mơ̆ng abih bang kơnung djuai mơnuih amăng lŏn tơnah anai,
   Ih ruah pioh laih ƀing gơmơi jing ƀing Israel,
   kiăng kơ jing kŏng ngăn kơ Ih pô.
  Tơlơi anŭn yơh Ih ƀuăn rơ̆ng laih mơ̆ng ding kơna Ih Môseh
   tơdang Ih, Ơ Khua Yang Yahweh hơi, ba tơbiă laih ƀing ơi adon gơmơi mơ̆ng lŏn čar Êjip.”
54Tơdang pơtao Solomôn iâu laĭ, ñu dŏ tŏ tơŭt pơ anăp kơnưl Yahweh hăng yơr đĭ tơngan ñu pơ adai adih. Samơ̆ tơdang ñu pơgiŏng hĭ laih abih bang khul tơlơi iâu laĭ laih anŭn tơlơi rơkâo kơ tơlơi pap anŭn hăng Yahweh, 55ñu tơgŭ laih anŭn bơni hiam kơ abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ pơ anŭn hăng jua pơhiăp kraih tui anai:
56“Bơni hơơč kơ Yahweh, jing Pô hơmâo brơi laih kơ ƀing ană plei Ñu Israel dŏ rơnŭk rơnua kar hăng tơlơi Ñu ƀuăn laih. Abih bang khul tơlơi ƀuăn hiam Ñu ƀuăn brơi laih mơ̆ng ding kơna Ñu Môseh hơmâo krep truh laih. 57Kwưh rơkâo kơ Yahweh Ơi Adai ta dŏ hăng ƀing ta kar hăng tơlơi Ñu dŏ laih hăng ƀing ơi adon ta. Kwưh rơkâo kơ Ñu ƀu či đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing ta ôh kŏn lui raih hĭ ƀing ta lơi. 58Kwưh rơkâo kơ Ñu kơčrâo brơi kơ pran jua ta wir nao pơ Ñu kiăng kơ rơbat amăng abih bang jơlan Ñu laih anŭn djă̱ pioh khul tơlơi pơđar, khul tơlơi pơtă pơtăn laih anŭn khul tơlơi phiăn Ñu brơi laih kơ ơi adon ta. 59Kwưh rơkâo kơ Yahweh hơdơr hơdôm boh hiăp kâo anai, jing tơlơi kâo hơmâo iâu laĭ laih ƀơi anăp Ñu hrơi hăng mlam, tui anŭn Ñu dưi pơmĭn ƀlơ̆ng djru brơi kơ kâo, ding kơna Ñu anai, laih anŭn kơ ƀing ană plei Ñu tui hăng tơlơi kơƀah kiăng rĭm hrơi. 60Tui anŭn yơh, abih bang kơnung djuai amăng lŏn tơnah anai dưi thâo krăn kơnơ̆ng hơjăn Yahweh yơh jing Ơi Adai, sĭt ƀu hơmâo yang pơkŏn dơ̆ng tah. 61Samơ̆ ƀing gih khŏm jao hlo̱m jua pơmĭn gih kơ Yahweh Ơi Adai ta kiăng hơdip tui hăng khul tơlơi Ñu pơtă pơtăn laih anŭn tui gưt khul tơlơi Ñu pơđar jing kar hăng ƀing gih hlak ngă ƀơi mông anai yơh.”

Tơlơi Pơyơr Pơkô̆ Sang Yang Yahweh

(2 Hră Ruai 7:4-10)

62Giŏng anŭn, pơtao Solomôn hrŏm hăng abih bang ƀing Israel pơyơr đĭ gơnam ngă yang ƀơi anăp Yahweh. 63Solomôn pơyơr đĭ sa gơnam pơyơr tơlơi pơgop pơlir kơ Yahweh tui anai: Duapluh-dua-rơbâo drơi rơmô laih anŭn pluh-dua-rơbăn drơi triu bơbe. Tui anŭn yơh, pơtao laih anŭn ƀing Israel iâu laĭ pơyơr pơkô̆ sang yang Yahweh anŭn.
64Ƀơi hrơi anŭn mơ̆n, pơtao pơrơgoh hĭ anih tŏng krah wăl tơdron jing anih ƀơi gah anăp sang yang Yahweh. Giŏng anŭn, ñu pơyơr đĭ khul gơnam pơyơr čuh, khul gơnam pơyơr pơdai hlâo hla̱ng laih anŭn rơmuă khul gơnam pơyơr tơlơi pơgop pơlir pơ anih anŭn, yuakơ anih kơnưl ko̱ng ƀơi anăp sang yang Yahweh jing anet đơi kiăng kơ pioh abih bang khul gơnam pơyơr anŭn.
65Tui anŭn, Solomôn djă̱ hơdơr tơlơi phet ƀơi mông anŭn hrŏm hăng abih bang ƀing Israel mơ̆n, jing sa tơpul mơnuih lu biă mă, jing ƀing mơnuih mơ̆ng guai Lebô-Hamat gah dư̱r truh pơ krong ƀơi guai lŏn čar Êjip gah thu̱ng. Ƀing gơñu djă̱ hơdơr tơlơi anŭn ƀơi anăp Yahweh Ơi Adai ta amăng tơjuh hrơi laih anŭn tơjuh hrơi dơ̆ng, abih bang jing pluh-pă̱ hrơi. 66Ƀơi hrơi tŏ tui anŭn, jing ƀơi lơ tal sapăn, ñu brơi kơ ƀing ană plei glaĭ. Tơdang ƀing ană plei tơbiă nao, ƀing gơñu bơni hiam kơ pơtao laih anŭn glaĭ pơ sang gơñu hăng tơlơi hơ̆k kơdơ̆k mơak mơai amăng pran jua yuakơ abih bang tơlơi hiam klă Yahweh hơmâo pơgiŏng hĭ laih brơi kơ ding kơna Ñu pơtao Dawid laih anŭn kơ ƀing gơñu pô jing ƀing ană plei Ñu Israel.