8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

(II Sử 5:2 – 6:2)

1Bấy giờ, vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và trưởng gia tộc của dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem, để rước Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. 2Mọi người nam của Y-sơ-ra-ên đều tập hợp bên vua Sa-lô-môn vào tháng Ê-tha-nim, là tháng bảy để dự lễ. 3Khi tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến thì các thầy tế lễ khiêng Hòm Giao Ước lên, 4và họ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đi, cùng với Lều Hội Kiến và tất cả các vật dụng thánh trong Lều. Các thầy tế lễ và người Lê-vi đem các thứ ấy lên.
5Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đã tập hợp bên vua, đứng trước Hòm Giao Ước cùng dâng sinh tế chiên và bò rất nhiều, đến nỗi không thể đếm được. 6Các thầy tế lễ đem Hòm Giao Ước của Đức Giê-hô-va đặt vào vị trí bên trong cùng của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi đặt Hòm Giao Ước nên che phủ Hòm Giao Ước và các đòn khiêng. 8Các đòn khiêng dài đến nỗi từ Nơi Thánh ở ngay trước Nơi Chí Thánh, người ta có thể trông thấy đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9Trong Hòm Giao Ước không có gì khác ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào tại Hô-rếp, nơi Đức Giê-hô-va đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập.
10Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh thì có đám mây tràn đầy đền thờ của Đức Giê-hô-va, 11đến nỗi do đám mây ấy mà các thầy tế lễ không thể tiếp tục hành lễ được, vì vinh quang của Đức Giê-hô-va tràn ngập đền thờ của Ngài.
12Bấy giờ, Sa-lô-môn cầu nguyện:
  “Đức Giê-hô-va đã phán rằng
   Ngài ngự trong đám mây dày đặc.
  13Nhưng con đã xây cho Ngài một đền thờ nguy nga,
   Một nơi để Ngài ngự đời đời.”

Diễn từ của vua Sa-lô-môn

14Rồi vua quay mặt lại chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong khi mọi người đang đứng. 15Vua nói: “Ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha trẫm, và dùng chính tay Ngài làm ứng nghiệm lời ấy. Ngài phán rằng: 16‘Từ ngày Ta đã đem dân Ta là Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một đền thờ cho danh Ta ngự tại đó. Nhưng Ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 17Lúc ấy, Đa-vít, cha trẫm, có ý định xây cất một đền thờ cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, cha trẫm, rằng: ‘Con có ý định xây cất một đền thờ cho danh Ta là điều tốt. 19Tuy nhiên, con sẽ không xây cất đền thờ ấy đâu, nhưng con của con, do con sinh ra, sẽ xây cất đền thờ cho danh Ta.’ 20Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán hứa, vì trẫm đã kế vị Đa-vít, cha trẫm, và ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đúng như Đức Giê-hô-va đã phán. Trẫm đã xây cất đền thờ nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21Tại đó, trẫm đã chuẩn bị một chỗ để đặt Hòm Giao Ước, trong đó có giao ước của Đức Giê-hô-va, là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta khi đem họ ra khỏi đất Ai Cập.”

Lời cầu nguyện cung hiến của Sa-lô-môn

22Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời và cầu nguyện rằng: 23“Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Không có thần nào trên trời cao kia hoặc dưới đất thấp nầy giống như Ngài. Chúa giữ giao ước và lòng nhân từ với các đầy tớ Ngài, là những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 24Chúa đã giữ lời Ngài phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Chúa phán hứa thì tay Chúa đã thực hiện như đã có ngày nay. 25Vậy bây giờ, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin giữ lời Chúa đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Nếu con cháu của con cẩn thận trong đường lối mình, bước đi trước mặt Ta như con đã bước đi, thì trước mặt Ta, con sẽ không hề thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đâu.’ 26Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin Chúa làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã phán hứa với đầy tớ Ngài là Đa-vít, cha của con.
27Nhưng thật ra Đức Chúa Trời có ngự trên đất nầy chăng? Kìa, các tầng trời, ngay cả trời của các tầng trời cũng không thể chứa Ngài được, huống chi đền thờ nầy mà con đã xây cất! 28Dù vậy, lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con! Xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của đầy tớ Ngài, xin đoái nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà hôm nay đầy tớ Ngài đang dâng lên trước mặt Ngài. 29Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là nơi Chúa đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời khẩn nguyện của đầy tớ Ngài hướng về nơi nầy mà kêu cầu. 30Xin Chúa lắng nghe lời khẩn cầu mà đầy tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài hướng về nơi nầy cầu nguyện. Từ nơi ngự của Chúa trên các tầng trời, xin Chúa đoái nghe và tha thứ cho.
31Nếu có ai phạm tội với người lân cận mình và bị buộc phải thề, nên người ấy đến thề trước bàn thờ của Chúa trong đền thờ nầy, 32thì xin Chúa trên trời lắng nghe, hành động và phân xử cho các đầy tớ Ngài, kết án kẻ có tội, khiến nó phải chịu lấy hậu quả của tội lỗi mình, và xưng công chính cho người công chính bằng cách ban thưởng theo sự công chính của người ấy.
33Khi Y-sơ-ra-ên, con dân của Ngài, bị kẻ thù đánh bại vì phạm tội với Ngài, nếu họ trở lại với Ngài, xưng nhận danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Ngài trong đền thờ nầy, 34thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35Khi các tầng trời bị đóng chặt, không có mưa vì họ đã phạm tội với Chúa, nếu họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Chúa, lìa bỏ tội lỗi mình vì Chúa đã sửa phạt họ, 36thì xin Chúa trên trời lắng nghe, tha tội cho các đầy tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin Chúa chỉ cho họ con đường chính đáng mà họ phải đi, và cho mưa rơi trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37Khi trong xứ có đói kém, dịch bệnh, hoặc hạn hán, nấm mốc, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù vây hãm các cổng thành của xứ, hoặc có bất cứ tai họa, bệnh tật gì; 38nếu có một người hoặc toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình, và giơ tay ra hướng về đền thờ nầy mà cầu nguyện, khẩn xin bất luận điều gì, 39thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe, tha thứ, hành động và báo trả cho mỗi người tùy theo đường lối của họ, và theo những gì Chúa biết trong lòng họ, vì chỉ một mình Chúa biết rõ lòng người; 40để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời, khi họ sống trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
41Ngoài ra, đối với người ngoại quốc là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì nghe danh Ngài nên từ xứ xa đến 42(vì họ đã nghe về uy danh của Chúa, về tay quyền năng và cánh tay giơ thẳng ra của Ngài). Khi họ đến cầu nguyện trong đền thờ nầy, 43thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe và làm cho họ mọi điều họ cầu xin Ngài, để muôn dân trên đất nhận biết danh Chúa và kính sợ Ngài giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và để người ta biết rằng danh Chúa được kêu cầu nơi đền thờ mà con đã xây cất.
44Khi dân của Chúa ra trận chiến đấu với quân thù ở bất cứ nơi nào Chúa sai họ đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va hướng về thành Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Ngài, 45thì xin Chúa trên trời lắng nghe các lời cầu nguyện và nài xin của họ mà thực thi công lý cho họ.
46Khi họ phạm tội với Chúa — vì chẳng có người nào không phạm tội — khiến Chúa nổi giận với họ và phó họ cho kẻ thù để họ bị lưu đày trong xứ của kẻ thù, hoặc xa hay gần. 47Nếu trong đất lưu đày, họ hồi tâm, ăn năn và nài xin với Chúa rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, hành động một cách bướng bỉnh và gian ác;’ 48nếu trong xứ của kẻ thù, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện với Ngài, hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn và về đền thờ mà con đã xây cất cho danh Chúa, 49thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ và thực thi công lý cho họ. 50Xin Chúa tha thứ cho dân Ngài là dân đã phạm tội với Ngài, và tha thứ tất cả sự vi phạm mà họ đã phạm với Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ lưu đày có lòng thương xót họ, 51vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp mà Ngài đã đem ra khỏi Ai Cập, tức là khỏi lò luyện sắt. 52Nguyện mắt Chúa đoái xem đầy tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, lắng tai nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mỗi khi họ kêu cầu với Ngài. 53Lạy Chúa là Đức Giê-hô-va! Chúa đã biệt riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc trên mặt đất để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã tuyên phán qua Môi-se là đầy tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai Cập.”

Sa-lô-môn chúc phước cho hội chúng

54Khi Sa-lô-môn đã dâng lên Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện và nài xin nầy xong thì vua đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. 55Vua đứng và lớn tiếng chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
56“Ca ngợi Đức Giê-hô-va, Đấng đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã phán! Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà Ngài đã phán qua Môi-se, đầy tớ Ngài, thì chẳng có lời nào không ứng nghiệm. 57Cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta; xin Ngài đừng lìa, đừng bỏ chúng ta. 58Cầu xin Ngài giục lòng chúng ta hướng về Ngài, để chúng ta đi trong tất cả đường lối Ngài, tuân giữ những điều răn, luật pháp và mệnh lệnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. 59Nguyện các lời trẫm đã nài xin trước mặt Đức Giê-hô-va sẽ ở bên cạnh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm, để bảo vệ quyền lợi của đầy tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, tùy theo nhu cầu mỗi ngày, 60để muôn dân trên đất biết rằng chính Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chứ chẳng có ai khác. 61Vậy, các ngươi hãy hết lòng trung thành với Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chúng ta, bước đi trong luật pháp, và tuân giữ điều răn của Ngài như các ngươi đã làm ngày nay.”

Sa-lô-môn dâng sinh tế

62Sau đó, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua dâng các sinh tế trước mặt Đức Giê-hô-va. 63Sa-lô-môn dâng sinh tế lên Đức Giê-hô-va gồm hai mươi hai nghìn con bò đực và một trăm hai mươi nghìn con chiên làm tế lễ bình an. Như vậy, vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên Đức Giê-hô-va. 64Trong ngày đó, vua biệt riêng ra thánh phần giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, làm nơi dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an, vì bàn thờ bằng đồng để trước mặt Đức Giê-hô-va quá nhỏ, không thể chứa các tế lễ thiêu, tế lễ chay, và mỡ của tế lễ bình an.
65Trong lúc đó, Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên ở bên vua cùng dự lễ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa, cộng tất cả là mười bốn ngày. Thật là một hội chúng đông đảo, từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai Cập. 66Vào ngày thứ tám, vua cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua rồi trở về trại mình, lòng vui mừng phấn khởi về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, đầy tớ Ngài, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.

8

接約櫃入殿

(代下5.2-6.2)

1那時,所羅門召集以色列的長老、各支派的領袖和以色列人的族長到耶路撒冷所羅門王那裏,要把耶和華的約櫃從大衛城,就是錫安,接上來。 2以他念月,就是七月,在節期時,所有的以色列人都聚集到所羅門王那裏。 3以色列眾長老一來到,祭司就抬起約櫃。 4祭司和利未人將耶和華的約櫃請上來,又把會幕和會幕一切的聖器皿都帶上來。 5所羅門王和聚集到他那裏的以色列全會眾一同在約櫃前獻牛羊為祭,多得不可勝數,無法計算。 6祭司將耶和華的約櫃請進內殿,就是至聖所,安置在兩個基路伯的翅膀底下約櫃的地方。 7基路伯張開翅膀在約櫃上面的地方,從上面遮住約櫃和抬櫃的槓。 8這槓很長,從內殿前的聖所可以看見槓頭,從外面卻看不見。這槓直到今日還在那裏。 9約櫃裏沒有別的,只有兩塊石版,就是以色列人出埃及地,耶和華與他們立約的時候,摩西何烈山放在那裏的。 10祭司從聖所出來的時候,有雲充滿耶和華的殿, 11祭司因雲彩的緣故不能站立供職,因為耶和華的榮光充滿了耶和華的殿。 12那時,所羅門說:
  「耶和華曾說要住在幽暗之處
  13我的確為你建了一座雄偉的殿宇,
  作為你永遠居住的地方。」

所羅門向百姓講話

(代下6.3-11)

14王轉過臉來為以色列全會眾祝福,以色列全會眾都站立。 15所羅門說:「耶和華-以色列的上帝是應當稱頌的!因他親口向我父大衛應許的,也親手成就了;他曾說: 16『自從那日我領我百姓以色列埃及以來,我未曾在以色列各支派中選擇一城,在那裏為我的名建造殿宇,但我揀選大衛治理我的百姓以色列。』 17我父大衛的心意是要為耶和華-以色列上帝的名建殿。 18耶和華卻對我父大衛說:『你有心為我的名建殿,這心意是好的; 19但你不可建殿,惟有你親生的兒子才可為我的名建殿。』 20現在耶和華實現了他所應許的話,使我接續我父大衛以色列的王位,正如耶和華所說的,我也為耶和華-以色列上帝的名建造了這殿。 21我也在那裏為約櫃預備一處。約櫃那裏有耶和華的約,就是他領我們列祖出埃及地的時候,與他們所立的約。」

所羅門的禱告

(代下6.12-42)

22所羅門當着以色列全會眾,站在耶和華的壇前,向天舉手, 23說:「耶和華-以色列的上帝啊,天上地下沒有神明可與你相比!你向那些盡心行在你面前的僕人守約施慈愛, 24這約是你向你僕人大衛守的,是你應許他的。你親口應許,親手成就,正如今日一樣。 25耶和華-以色列的上帝啊,你向你僕人我父大衛應許說:『你的子孫若謹慎自己的行為,在我面前行事像你所行的一樣,就不斷有人在我面前坐以色列的王位。』現在求你信守這話。 26以色列的上帝啊,現在求你成就向你僕人我父大衛所應許的話。
27「上帝果真住在地上嗎?看哪,天和天上的天尚且不足容納你,何況我所建的這殿呢? 28惟求耶和華-我的上帝垂顧僕人的禱告祈求,俯聽僕人今日在你面前的祈禱呼求。 29願你的眼目晝夜看顧這殿,就是你說要作為你名的居所;求你垂聽禱告,你僕人向此處的禱告。 30你僕人和你百姓以色列向此處祈禱的時候,求你在你天上的居所垂聽,垂聽而赦免。
31「人若得罪鄰舍,有人強迫他,要他起誓,他來到這殿,在你的壇前起誓, 32求你在天上垂聽、處理,向你的僕人施行審判,定惡人有罪,照他所行的報應在他頭上;定義人為義,照他的義賞賜他。
33「你的百姓以色列若得罪你,敗在仇敵面前,卻又歸向你,宣認你的名,在這殿裏向你祈求禱告, 34求你在天上垂聽,赦免你百姓以色列的罪,使他們歸回你賜給他們列祖的地。
35「你的百姓若得罪了你,你使天閉塞不下雨;他們若向此處禱告,宣認你的名,因你的懲罰而離開他們的罪, 36求你在天上垂聽,赦免你僕人你百姓以色列的罪,將當行的善道教導他們,並降雨在你的地,就是你賜給你百姓為業之地。
37「這地若有饑荒、瘟疫、焚風、霉爛、蝗蟲、螞蚱,或有仇敵圍困這地的城門,無論遭遇甚麼災禍疾病, 38你的百姓以色列,或眾人或一人,內心知道有禍,向這殿舉手,無論祈求甚麼,禱告甚麼, 39求你在天上你的居所垂聽、赦免、處理。因為你知道人心,惟有你知道世人的心,求你照各人所行的一切待他們, 40使他們在你賜給我們列祖的土地上一生一世敬畏你。
41「論到不屬你百姓以色列的外邦人,若為你的名從遠方而來, 42他們因聽見你的大名和大能的手,以及伸出來的膀臂,來向這殿禱告, 43求你在天上你的居所垂聽,照着外邦人向你所求的一切而行,使地上萬民都認識你的名,敬畏你,像你的百姓以色列一樣,又使他們知道我所建造的是稱為你名下的殿。
44「你的百姓若奉你的派遣出去,無論往何處與仇敵爭戰,他們若向耶和華所選擇的城,以及我為你名所建造的這殿禱告, 45求你在天上垂聽他們的禱告祈求,為他們伸張正義。
46「你的百姓若得罪你,因為沒有人不犯罪,你向他們發怒,把他們交在仇敵面前,擄他們的人把他們帶到仇敵之地,或遠或近, 47他們若在被擄之地那裏回心轉意,在擄掠者之地悔改,向你懇求說:『我們有罪了,我們悖逆了,我們作惡了』; 48他們若在擄他們的仇敵之地盡心盡性歸向你,又向自己的地,就是你賜給他們列祖的地和你所選擇的城,以及我為你名所建造的這殿禱告, 49求你在天上你的居所垂聽他們的禱告祈求,為他們伸張正義, 50饒恕得罪你的子民,赦免他們向你所犯一切的過犯,使他們在擄他們的人面前蒙憐憫。 51因為他們是你的子民,你的產業,是你從埃及,從鐵爐中領出來的。 52願你的眼目看顧僕人和你百姓以色列的祈求;他們無論何時向你呼求,願你垂聽。 53主耶和華啊,你將他們從地上萬民中分別出來作你的產業,是照着你領我們列祖出埃及的時候,藉你僕人摩西所應許的。」

為民祝福

54所羅門在耶和華的壇前屈膝跪着,向天舉手;他在耶和華面前禱告祈求完畢的時候,就起來, 55站着,大聲為以色列全會眾祝福,說: 56「耶和華是應當稱頌的!因為他照着一切所應許的賜平安給他的百姓以色列,凡藉他僕人摩西應許賜福的話,一句都沒有落空。 57願耶和華-我們的上帝與我們同在,像與我們列祖同在一樣,不撇下我們,不丟棄我們, 58使我們的心歸向他,遵行他一切的道,謹守他吩咐我們列祖的誡命、律例、典章。 59願我在耶和華面前祈求的這些話,晝夜靠近耶和華-我們的上帝,好讓他每日為他僕人和他百姓以色列伸張正義, 60使地上的萬民都知道惟獨耶和華是上帝,沒有別的了。 61所以你們當向耶和華-我們的上帝存純正的心,遵行他的律例,謹守他的誡命,如同今日一樣。」

奉獻聖殿

(代下7.4-10)

62王和全以色列一同在耶和華面前獻祭。 63所羅門向耶和華獻平安祭,二萬二千頭牛,十二萬隻羊。這樣,王和全以色列為耶和華的殿行了奉獻之禮。 64當日,王因耶和華殿前的銅壇太小,容不下燔祭、素祭和平安祭牲的脂肪,就將耶和華殿前院子的中間分別為聖,在那裏獻燔祭、素祭和平安祭牲的脂肪。
65那時所羅門守節,從哈馬口直到埃及溪谷的以色列眾人都與他同在一起,成了一個盛大的會,在耶和華-我們的上帝面前七日又七日,共十四日。 66第八日,王遣散百姓;他們都為王祝福。他們為耶和華向他僕人大衛和他百姓以色列所施的一切恩惠都心中喜樂,愉快地各回自己的帳棚去了。