13

Đoàn Truyền Giáo Ra Đi Từ An-ti-ốt

1Tại Hội Thánh An-ti-ốt có các tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-môn biệt danh là Ni-giê, Lu-xi-út, người Ly-bi, Ma-na-ên, em nuôi của vua Hê-rốt và Sau-lơ. 2Họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh bảo: “Các con hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để họ làm công tác Ta đã kêu gọi họ.” 3Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và phái đi.
4Được Đức Thánh Linh sai đi, hai ông xuống Sê-lơ-xi, đáp tàu qua đảo Síp. 5Đến Sa-la-môn, họ công bố Đạo Đức Chúa Trời tại các hội đường Do Thái, có Giăng phụ tá.
6Đi qua suốt cả hải đảo đến Ba Phô, họ gặp một thầy phù thủy là tiên tri giả người Do Thái tên Ba-Giê-su, 7đang ở với tổng trấn Sê-giu Phao-lô, một người khôn ngoan. Tổng trấn cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ để tìm hiểu Đạo Chúa. 8Nhưng tên phù thủy (cũng gọi là Ê-ly-ma) chống đối họ và cố gắng đánh lạc hướng để tổng trấn đừng tin Chúa. 9Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô được đầy Thánh Linh, nhìn thẳng người phù thủy 10mà bảo: “Anh là người đầy gian dối, lừa gạt, là con của quỷ vương, kẻ thù địch của mọi sự công chính! Anh không chấm dứt việc xuyên tạc đường lối ngay thẳng của Chúa sao? 11Này, bây giờ tay Chúa đánh anh, nên anh sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời một thời gian.” Lập tức mù lòa và bóng tối bao trùm Ê-ly-ma, anh ta phải đưa tay sờ soạng, nhờ người nắm tay dắt mình đi. 12Thấy thế, tổng trấn liền tin Chúa và vô cùng kinh ngạc về giáo huấn của Chúa.
13Từ Ba Phô, Phao-lô và các bạn đồng hành đáp thuyền đi Bẹt-ga, thuộc Bam-phi-li. Đến đây, Giăng bỏ họ quay về Giê-ru-sa-lem. 14Từ Bẹt-ga, họ đi đến tận An-ti-ốt, xứ Bi-si-đi. Nhằm ngày Sa-bát, họ vào ngồi trong hội đường của người Do Thái. 15Sau khi đọc Kinh Luật và Kinh Tiên Tri, các nhân viên quản trị hội đường cho mời họ và nói: “Thưa các anh em, nếu ai có lời khích lệ hội chúng thì xin cứ phát biểu!”
16Phao-lô đứng dậy, đưa tay ra hiệu và nói: “Thưa người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, xin nghe tôi trình bày. 17Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên đã chọn tổ phụ chúng ta và cho họ thịnh đạt trong thời gian ngụ tại đất Ai-cập. Ngài dùng tay quyền năng cao cả dìu dắt họ ra khỏi nước này. 18Ngài chịu đựng họ trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. 19Ngài tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an và cho họ thừa hưởng đất nước ấy. Thời kỳ này độ bốn trăm năm mươi năm. 20Sau đó, Ngài ban cho họ các thẩm phán cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. 21Lúc ấy họ đòi xin một vị vua. Đức Chúa Trời cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc chi tộc Bên-gia-min, lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. 22Rồi Ngài loại Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, là người được Ngài chứng nhận:
 ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con Gie-sê, người mà Ta hài lòng,
 Người sẽ thực hiện tất cả ý định của Ta.’
23Do dòng dõi của Đa-vít, Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su theo lời hứa của Ngài. 24Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, Giăng đã tuyên bố cho toàn dân Y-sơ-ra-ên phép báp-tem ăn năn tội. 25Khi gần hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Các người nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Đấng đó, nhưng kìa, Ngài đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’
26Thưa các anh em là dòng dõi Áp-ra-ham và những người kính sợ Đức Chúa Trời, Đạo cứu rỗi này đã được ban bố cho chúng ta. 27Vì dân cư Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo của họ không nhận biết Đức Giê-su nhưng khi lên án Ngài, họ lại làm ứng nghiệm lời các tiên tri của Chúa vẫn được đọc mỗi ngày Sa-bát. 28Dù không tìm thấy lý do nào để kết án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát xử tử Ngài. 29Khi họ đã làm trọn tất cả những lời đã chép về Ngài, họ hạ xác Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong một ngôi mộ. 30Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, 31và những người đã theo Ngài từ miền Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem được thấy Ngài trong nhiều ngày. Hiện nay, họ đều làm chứng về Ngài trước dân chúng.
32Chúng tôi báo tin mừng cho quý vị: Điều Đức Chúa Trời đã hứa với tổ phụ chúng ta, 33Ngài đã thực hiện cho chúng ta là dòng dõi họ, bằng cách khiến Đức Giê-su sống lại như Thánh Thi thứ nhì đã chép:
  ‘Ngươi là con Ta,
   Ngày nay Ta đã sinh ngươi.’
34Sự kiện Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, không bị rữa nát bao giờ, đã được phán:
  ‘Ta sẽ cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’
35Do đó, trong một chương khác, Kinh Thánh lại nói:
  ‘Chúa sẽ không cho Đấng Thánh của Ngài bị rữa nát.’
36Nhưng sau khi phục vụ Đức Chúa Trời theo ý Ngài trong thời đại mình, vua Đa-vít đã chết, được chôn cất bên cạnh tổ tiên, và phải bị rữa nát. 37Còn Đấng được Đức Chúa Trời làm cho sống lại thì không bao giờ bị rữa nát. 38Vậy, thưa anh em, xin nhận thức rằng chính nhờ Đức Giê-su mà ơn tha tội được công bố cho các anh em. 39Tất cả những ai tin Ngài đều được tuyên xưng công chính về mọi điều mà Kinh Luật Môi-se không thể nào tuyên xưng công chính được. 40Vậy hãy coi chừng để khỏi bị mắc phải điều các tiên tri Chúa đã cảnh cáo:
  41‘Hỡi những kẻ khinh miệt, xem đây!
   Hãy kinh ngạc và chết đi!
  Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc,
   Dù nghe ai nói
   Các ngươi cũng không tin!’ ”
42Khi ra về, dân chúng yêu cầu hai ông ngày Sa-bát sau, cũng giảng luận thêm cho họ nghe các điều ấy nữa. 43Cuộc họp đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại quốc theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông chuyện trò với họ và khích lệ họ cứ tiếp tục sống theo ân sủng của Đức Chúa Trời.
44Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân trong thành đều họp lại để nghe Đạo Chúa. 45Thấy đoàn dân đông đảo, những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối những điều Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông.
46Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn tuyên bố: “Cần phải truyền Đạo Đức Chúa Trời cho các người trước nhất, vì các người chối bỏ Đạo Chúa và tự xét mình không xứng đáng được sự sống vĩnh phúc nên bây giờ chúng tôi quay sang các dân tộc ngoại quốc. 47Vì Chúa đã truyền bảo tôi:
  ‘Ta đã lập con lên làm ánh sáng cho các dân tộc,
   Để con đem sự cứu rỗi đến tận cùng quả đất.’ ”
48Nghe lời này, người ngoại quốc hân hoan và tôn vinh Đạo Chúa; những người đã được định để hưởng sự sống vĩnh phúc đều tin nhận Chúa.
49Đạo Chúa được truyền bá khắp cả miền ấy. 50Nhưng người Do Thái sách động một số phụ nữ quý phái theo Do Thái giáo và các cấp lãnh đạo của thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ. 51Để phản ứng lại, hai ông phủi bụi dính chân mình và qua thành Y-cô-ni. 52Còn các môn đệ Chúa được đầy dẫy Thánh Linh và vui mừng.

13

Raviei Yiang Sursĩ Rưoh Ba-naba Cớp Salơ

1Tỗp sa‑âm Yê-su tâng vil Anti-ôt bữn máh cũai tang bỗq Yiang Sursĩ cớp bữn cũai canŏ́h atỡng parnai Yiang Sursĩ. Ramứh alới la neq: Ba-naba, Si-mê-ôn (noau dŏq án Ni-yê hỡ), Lusi-ut tễ cruang Si-rên, Mana-en (án la samoât sễm ai puo Hê-rôt yuaq alới bar náq noau rabán parnơi bo alới noâng cacớt), cớp Salơ. 2Bữn muoi tangái bo alới sang toam Yiang Sursĩ cớp ót sana, Raviei Yiang Sursĩ atỡng alới neq: “Anhia pác dŏq miar Ba-naba cớp Salơ yỗn táq máh ranáq cứq ớn alới táq.”
3Moâm alới ót sana cớp câu, chơ alới satoaq atĩ tâng Ba-naba cớp Salơ. Cớp alới ớn bar náq ki pỡq táq ranáq samoât Raviei Yiang Sursĩ ớn alới táq.

Phau-lô Cớp Ba-naba Tâng Cruang Sip-rơ

4Ngkíq Ba-naba cớp Salơ loŏh tễ ki, cớp pỡq chu vil Sê-lusi samoât Raviei Yiang Sursĩ ớn alới. Tễ vil ki alới pỡq na tuoc chu cỗn Sip-rơ. 5Tữ alới toâq pỡ cỗn Sip-rơ, alới sễng tễ tuoc bân vil Sa-lamít. Chơ alới mut tâng dống sang cũai I-sarel tâng vil ki, yoc atỡng parnai o tễ Yiang Sursĩ. Dếh Yang Mac hỡ pỡq cớp alới dŏq chuai alới. 6Vớt ki alới pỡq tadáh chũop nheq cỗn Sip-rơ toau alới toâq pỡ vil Baphô. Tâng vil Baphô alới ramóh manoaq cũai I-sarel ramứh Bayê-su. Án la cũai mo, cớp án la cũai táq nan tang bỗq Yiang Sursĩ. Bayê-su nâi, noau dŏq án Ê-luma hỡ. 7Ê-luma ỡt chuai ranáq yỗn cũai sốt tâng cỗn Sip-rơ, ramứh Sê-yut Phalut. Sê-yut Phalut la cũai rangoaiq lứq, cớp án arô Ba-naba cớp Salơ yoc ễ tamứng parnai Yiang Sursĩ. 8Ma Ê-luma catáng tỡ ễq Sê-yut Phalut tamứng cớp sa‑âm parnai ki. 9Chơ Salơ, noau dŏq ramứh Phau-lô hỡ, án nhêng cloân níc chu Ê-luma. Cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm án. 10Án pai chóq Ê-luma neq: “Mới la cũai dốq ễ cakéq, cớp yoc lứq raphếq rathũ. Mới la con yiang Satan. Mới yoc ễ pupứt ngê tanoang o. Nŏ́q mới tỡ ễq cũai puai ngê tanoang o tễ Yiang Sursĩ? 11Sanua Yiang Sursĩ táq yỗn mới cỡt sũt. Tỡ dáng maléq dũn nŏ́q têq mới hữm loah.”
 Bo ki toâp Ê-luma cỡt sũt. Chơ án chuchơr chuaq cũai ễq noau tếc án.
12Tữ cũai sốt cruang ki hữm ranáq ki, án sâng dớt lứq, cớp án sa‑âm Yê-su Crĩt tê.

Phau-lô Cớp Ba-naba Tâng Vil Anti-ôt Cruang Bi-sadi

13Vớt ki Phau-lô cớp yớu án chỗn tâng tuoc loŏh tễ vil Baphô pỡq chu vil Pêr-ca tâng cruang Bam-phuli. Ỡt tâng vil ki Yang Mac tỡ bữn pỡq noâng cớp alới, ma án chu loah pỡ vil Yaru-salem. 14Chơ Ba-naba cớp Phau-lô loŏh tễ vil Pêr-ca pỡq chu vil Anti-ôt tâng cruang Bi-sadi. Tâng Tangái Rlu alới bar náq mut rôm tâng dống sang tỗp I-sarel tâng vil ki. 15Moâm noau doc tễ phễp rit Môi-se khoiq atỡng tễ mbŏ́q yỗn tỗp I-sarel, cớp doc tễ tâm saráq cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q, alới ca ndỡm dống sang ki pai chóq Ba-naba cớp Phau-lô neq: “Sễm ai ơi! Khân anhia bữn santoiq catoaih atỡng yỗn hếq cỡt rêng achỗn, sễq anhia atỡng yỗn tỗp hếq dáng tê.”
16Ngkíq Phau-lô yuor tayứng cớp avứt atĩ tỡ yỗn alới tabỗq. Chơ án atỡng alới neq: “Nheq tữh sễm ai cũai I-sarel ơi! Cớp nheq náq anhia ca yám noap Yiang Sursĩ tê, sễq anhia tamứng santoiq cứq. 17Yiang Sursĩ nheq tữh cũai I-sarel sang, án toâp khoiq rưoh achúc achiac hái tễ mbŏ́q. Bo alới ỡt tâng cruang Ê-yip-tô, Yiang Sursĩ yỗn alới cỡt rứh clứng lứq. Toâq Yiang Sursĩ yỗn tỗp hái loŏh tễ cruang Ê-yip-tô, ki dũ náq cũai dáng án bữn chớc sốt toâr lứq. 18Tỗp I-sarel ỡt tâng ntốq aiq nheq pỗn chít cumo. Dốq alới tỡ trĩh parnai Yiang Sursĩ, ma noâng Yiang Sursĩ ayooq alới. 19Cớp tâng cruang Cana-an, Yiang Sursĩ pupứt chíq tapul cruang cũai, chơ yỗn tỗp hái ễn bữn ndỡm nheq cutễq tâng cruang ki. 20Ranáq ki cỡt tâng sám pỗn culám sỡng chít cumo. Vớt ki Yiang Sursĩ rưoh cũai dŏq rasữq tỗp I-sarel, toau toâq dỡi Samu-ễl, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ.
21“Moâm ki tỗp I-sarel sễq Yiang Sursĩ yỗn alới bữn puo. Ngkíq Yiang Sursĩ yỗn Salơ cỡt puo alới. Salơ la con samiang Ki-sơ tễ tỗp Ben-yamin, cớp án cỡt puo nheq pỗn chít cumo. 22Vớt ki Yiang Sursĩ táh Salơ, cớp án chóh Davĩt ễn yỗn cỡt puo. Yiang Sursĩ pai tễ Davĩt neq:
  ‘Davĩt, con samiang Yê-sai, bữn muoi mứt cớp cứq.
Ntrớu cứq yoc án táq, án lứq táq aki.’
23“Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq tễ nhũang, án lứq yỗn manoaq tễ tŏ́ng toiq Davĩt toâq chuai amoong cũai I-sarel. Manoaq nâi la Yê-su. 24Bo Yê-su tỡ yũah toâq, Yang khoiq atỡng yỗn máh cũai I-sarel cóq roap batễm, táq tếc alới khoiq ngin lôih lêq cỡt mứt tamái ễn. 25Toâq Yang táq máh ranáq Yiang Sursĩ ớn án khoiq cheq ễ moâm chơ, án pai neq: ‘Cứq la tỡ cỡn án ca anhia ngcuang. Ma ntun nâi, án ca anhia ngcuang lứq toâq. Cứq la tỡ bữn pĩeiq dếh leh cansái cỡp tễ ayững án, yuaq cứq bữn chớc cớt-cớt lứq.’
26“Sễm ai ơi! Hái ca tễ tŏ́ng toiq A-praham, cớp máh anhia ca yám noap Yiang Sursĩ, Yiang Sursĩ lứq yỗn hái bữn parnai án, dŏq hái noap án têq chuai amoong cũai. 27Cũai proai tâng vil Yaru-salem cớp máh cũai sốt alới hỡ, alới tỡ bữn dáng Yê-su la Con Yiang Sursĩ. Cu Tangái Rlu tâng dống sang, alới doc tễ tâm saráq cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q, mŏ alới tỡ bữn dáng ntrớu tễ máh ŏ́c tâng tâm saráq ki. Ma toâq alới cachĩt Yê-su, alới táq yỗn cỡt rapĩeiq samoât cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq atỡng. 28Máh cũai tâng vil Yaru-salem chuaq ralíh ễ cachĩt Yê-su, ma alới tỡ ramóh muoi ŏ́c ntrớu têq cachĩt án. Ma noâng alới sễq tễ Phi-lat yỗn án cachĩt Yê-su. 29Toâq alới khoiq táq moâm nheq samoât cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q tễ Yê-su, chơ alới alíh asễng Yê-su tễ aluang sangcáng, cớp dững tứp án tâng ping. 30Ma Yiang Sursĩ yỗn Yê-su tamoong loah tễ cuchĩt. 31Chơ án ỡt clữi muoi casâi cớp alới ca khoiq puai án tễ cruang Cali-lê chu vil Yaru-salem. Sanua, tỗp nâi pỡq atỡng cũai I-sarel ca tỡ yũah dáng tễ ranáq Yê-su táq. 32-33Ngkíq hếq toâq atỡng parnai o nâi yỗn anhia dáng tê, la parnai Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq cớp achúc achiac hái tễ mbŏ́q. Toâq Yiang Sursĩ yỗn Yê-su tamoong loah, án táq rapĩeiq máh ŏ́c án khoiq ữq cớp achúc achiac hái. Yiang Sursĩ khoiq atỡng máh ŏ́c nâi tâng pún bar tâm saráq Ũat Khễn. Yiang Sursĩ pai tễ Yê-su neq:
  ‘Mới la Con cứq.
   Tangái nâi cứq lứq cỡt Mpoaq mới.’
34“Cớp muoi ntốq canŏ́h ễn tâng tâm saráq Yiang Sursĩ, án pai tễ Yê-su neq:
  ‘Cứq lứq yỗn mới bữn máh ŏ́c bốn cứq khoiq ữq cớp Davĩt tễ mbŏ́q chơ.’
35“Cớp bữn ntốq canŏ́h ễn tâng tâm saráq Ũat Khễn, Davĩt pai neq:
‘Anhia tỡ yỗn án ca bráh o lứq cỡt abuoiq.’
36“Bo Davĩt noâng tamoong án táq máh ranáq Yiang Sursĩ ớn án táq. Ma toâq án cuchĩt, noau tứp án tâng ping achúc achiac án tê. Tỗ án cỡt abuoiq. 37Ma Yê-su, Yiang Sursĩ yỗn án tamoong loah, cớp tỗ án tỡ bữn abuoiq ntrớu. 38-39Ngkíq, sễm ai ơi, cứq yoc anhia dáng samoât lứq, ống manoaq Yê-su toâp têq táh lôih anhia. Máh phễp rit Môi-se yỗn anhia, tỡ têq yỗn anhia cỡt tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. Ma cũai aléq sa‑âm Yê-su, cũai ki lứq cỡt tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. 40Ngkíq anhia nhêng o, dŏq anhia têq viaq tễ ramứh túh coat cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq pai tễ mbŏ́q neq:
  41‘Máh anhia ca ayê ra‑ac parnai Yiang Sursĩ,
   cóq anhia tamứng yỗn samoât.
  Cóq anhia sâng croŏq lứq,
   cớp cóq anhia cuchĩt chíq,
  yuaq cứq ễ táq ranáq tâng dỡi anhia ca anhia tỡ bữn noap,
tam noau atỡng anhia chơ tễ ŏ́c ki.’”
42Tữ Phau-lô cớp Ba-naba loŏh tễ dống sang ki, bữn cũai sễq alới atỡng loah santoiq ki toâq Tangái Rlu ntun ễn. 43Moâm alới rôm, alới miar chu. Ma bữn sa‑ữi náq tễ tỗp I-sarel cớp tễ tỗp canŏ́h ca puai phễp rit I-sarel, alới puai Phau-lô cớp Ba-naba. Ngkíq Phau-lô cớp Ba-naba táq ntỡng cớp alới, cớp patâp alới chỗi táh máh ŏ́c Yiang Sursĩ khoiq chuai miat alới.
44Toâq Tangái Rlu ntun ễn, mán nheq tữh cũai tễ vil ki pỡq rôm yoc ễ tamứng parnai Yiang Sursĩ. 45Tữ cũai I-sarel hữm clứng lứq cũai rôm, alới sâng ũan, yuaq alới tỡ ễq cũai tamứng parnai Phau-lô. Chơ alới acrieiq Phau-lô. 46Ma Phau-lô cớp Ba-naba atỡng clŏ́q lứq ễn neq: “Cóq hếq atỡng yỗn anhia cũai I-sarel tamứng parnai Yiang Sursĩ nhũang tễ cũai canŏ́h. Ma anhia tỡ ễq tamứng parnai nâi, samoât riang anhia tỡ ễq tamoong mantái. Ngkíq sanua hếq pỡq atỡng cũai tỡ cỡn cũai I-sarel ễn. 47Yiang Sursĩ toâp ớn hếq táq ngkíq, cớp án pai neq:
  ‘Cứq chóh anhia yỗn cỡt samoât ŏ́c poang yỗn cũai tỡ cỡn cũai I-sarel,
dŏq nheq tữh cũai pưn paloŏng cutrúq nâi bữn dáng cứq yoc ễ chuai amoong alới.’”
48Tữ cũai tỡ cỡn cũai I-sarel sâng parnai ki, alới sâng bũi hỡr lứq, cớp alới khễn parnai Yiang Sursĩ. Máh cũai ca Yiang Sursĩ arô yỗn tamoong mantái, lứq alới sa‑âm parnai ki.
49Ngkíq parnai Yiang Sursĩ cỡt parhan la‑ữt la‑ữi chũop máh cruang ki. 50Ma cũai I-sarel, pỡq sasrúc chóq máh cũai sốt tâng vil ki cớp chóq máh cũai ayoaq ca sang toam Yiang Sursĩ. Cũai ayoaq ki, aléq la yám noap lứq alới. Ngkíq máh cũai I-sarel tuih Phau-lô cớp Ba-naba yỗn loŏh chíq tễ cruang cutễq alới. 51Ma Phau-lô cớp Ba-naba trutrếh phốn tễ ayững, táq tếc cũai tâng vil ki tỡ ễq tamứng alới. Chơ alới pỡq chu vil I-cuni ễn. 52Ma máh cũai khoiq sa‑âm tâng vil Anti-ôt, alới sâng bũi lứq, cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm alới.