1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 Hãy làm hai ống loa bằng bạc, đánh dát, dùng cho ngươi để nhóm hiệp hội chúng và truyền cho các trại quân ra đi. 3 Khi nào người ta thổi loa, toàn hội chúng sẽ nhóm lại gần bên ngươi, tại cửa hội mạc. 4 Nếu người ta thổi chỉ một ống loa, thì các quan trưởng, tức là các quan tướng đội quân Y-sơ-ra-ên phải nhóm lại gần bên ngươi; 5 khi các ngươi thổi tiếng vang, thì những trại quân ở về hướng đông phải ra đi. 6 Khi các ngươi thổi tiếng vang lần thứ nhì, thì những trại quân ở về hướng nam phải ra đi; người ta sẽ thổi tiếng vang khi nào các trại quân phải ra đi vậy. 7 Khi nhóm hội chúng, các ngươi phải thổi, nhưng đừng thổi tiếng vang. 8 Các con trai A-rôn, là những thầy tế lễ, sẽ thổi những ống loa. Từ đời nầy sang đời kia, ấy sẽ là một lệ định đời đời cho các ngươi. 9 Khi nào trong xứ các ngươi phải ra chiến trận cùng kẻ thù nghịch xông đánh mình, thì phải thổi loa tiếng vang; Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi sẽ nhớ lại các ngươi, và các ngươi sẽ được giải thoát khỏi kẻ thù nghịch. 10 Trong những ngày vui mừng, trong các lễ trọng thể và đầu tháng của các ngươi, thì phải thổi loa khi dâng những của lễ thiêu và của lễ thù ân mình; loa sẽ dùng làm kỷ niệm trước mặt Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi.
Thì kiều ngụ nơi đồng vắng
(Từ 10:11 đến đoạn 21)
Dân Y-sơ-ra-ên đi đến đồng vắng
11 Xảy trong ngày hai mươi tháng hai, năm thứ hai, thì trụ mây cất lên khỏi đền tạm chứng cớ. 12 Dân Y-sơ-ra-ên, theo chương trình đã định, ra từ đồng vắng Si-na-i, và trụ mây dừng lại tại đồng vắng Pha-ran. 13 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên vâng mạng của Đức Giê-hô-va cậy Môi-se truyền cho, mà ra đi lần thứ nhứt. 14 Ngọn cờ của trại quân Giu-đa, tùy theo các đội ngũ mình, đi trước. Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp, thống lãnh quân đội Giu-đa. 15 Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, thống lãnh quân đội của chi phái Y-sa-ca. 16 Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, thống lãnh quân đội của chi phái Sa-bu-lôn. 17 Bấy giờ, đền tạm đã tháo dỡ, rồi con cháu Ghẹt-sôn và con cháu Mê-ra-ri khiêng đền tạm, bèn ra đi. 18 Kế đó, ngọn cờ của trại quân Ru-bên ra đi, tùy theo các đội ngũ mình. Ê-lít-su, con trai Sê-đêu, thống lãnh quân đội Ru-bên. 19 Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai, thống lãnh quân đội của chi phái Si-mê-ôn. 20 Ê-li-sáp, con trai Đê-u-ên, thống lãnh quân đội của chi phái Gát. 21 Bấy giờ, các người Kê-hát khiêng những vật thánh ra đi; người ta dựng đền tạm lên đương lúc đợi họ đến. 22 Đoạn, ngọn cờ của trại quân con cháu Ép-ra-im ra đi, tùy theo đội ngũ mình. Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút, thống lãnh quân đội Ép-ra-im. 23 Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su, thống lãnh quân đội của chi phái Ma-na-se. 24 A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni, thống lãnh quân đội của chi phái Bên-gia-min. 25 Rốt lại, ngọn cờ của trại quân Đan ra đi, tùy theo các đội ngũ mình; nó làm hậu binh của các trại quân khác. A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai, thống lãnh quân đội Đan. 26 Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran, thống lãnh quân đội của chi phái A-se. 27 A-hi-ra, con trai Ê-nan, thống lãnh quân đội của chi phái Nép-ta-li. 28 Đó là thứ tự về sự cất binh đi của dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo các đội ngũ mình; ấy, họ ra đi là như vậy. 29 Vả, Môi-se nói cùng Hô-báp, con trai Rê-u-ên, người Ma-đi-an, tức là anh vợ mình, mà rằng: Chúng tôi đi đến xứ mà Đức Giê-hô-va có phán rằng: Ta sẽ ban xứ đó cho các ngươi. Xin anh hãy đi cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đãi anh tử tế; vì Đức Giê-hô-va có hứa ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên. 30 Hô-báp đáp rằng: Tôi không đi đâu, nhưng tôi sẽ đi về xứ sở tôi, là nơi bà con tôi. 31 Môi-se lại nói rằng: Tôi xin anh chớ bỏ chúng tôi, vì anh biết nơi nào trong đồng vắng chúng tôi có thể hạ trại được; anh sẽ dường như con mắt cho chúng tôi vậy.⚓32 Nếu anh đi cùng chúng tôi, thì chúng tôi sẽ làm cho anh hưởng ơn lành mà Đức Giê-hô-va sẽ làm cho chúng tôi. 33 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên ra đi từ núi Đức Giê-hô-va, đi trong ba ngày đường; hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đi trước trong lúc ba ngày đường nầy, đặng tìm cho dân một nơi an nghỉ. 34 Trong lúc ban ngày, khi dân Y-sơ-ra-ên dời trại quân đi, thì trụ mây của Đức Giê-hô-va ở trên họ. 35 Khi hòm giao ước đi, thì Môi-se nói rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, xin chỗi dậy, để kẻ thù nghịch Ngài bị tản lạc, và kẻ nào ghét Ngài chạy trốn trước mặt Ngài!⚓36 Khi người ta để hòm giao ước xuống, thì Môi-se nói rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, xin trở lại cùng muôn vàn của Y-sơ-ra-ên!
10
Nŭng Uh Ƀư Ma Prăk
1Yêhôva lah ma Y-Môis, 2"Ƀư hom bar mlâm nŭng prăk; ăn may chiăr khân păng, jêh ri may mra dŏng khân păng gay kuăl phung tâm rƀŭn jêh ri mbơh nau dâk hăn. 3Ƀiălah tơ lah bu uh lĕ bar, lĕ rngôch phung tâm rƀŭn mra văch ma may ta mpông lăp ngih bok tâm rƀŭn. 4Tơlah khân păng uh kanŏng du mlâm, nôk nây phung kôranh phung mpôl Israel mra tâm rƀŭn n'hanh may. 5Tơ lah khân may uh ăn hăn ma nau tâm lơh, phung gŭ mpeh palơ mra dâk hăn. 6Jêh ri tơ lah khân may uh tal bar, phung gŭ mpeh tâm rđŭng mra dâk hăn. Bu mra uh nŭng ăn tâm lơh tơ lah bu ăn khân păng dâk hăn. 7Ƀiălah tơ lah bu gay ăn phung ƀon lan tâm rƀŭn, khân may mra uh, ƀiălah khân may mâu mra uh nau ăn tâm lơh ôh. 8Phung kon buklâu Y-Arôn phung kôranh ƀư brah mra uh nŭng; nŭng nây mra jêng nau vay gŭ ƀaƀơ ma khân may tâm lĕ rngôch rnôk. 9Jêh ri tâm n'gor bri khân may, tơ lah khân may hăn tâm lơh đah rlăng tŭn jot khân may, pô ri khân may mra uh nŭng ăn hăn tâm lơh, gay ma Yêhôva Brah Ndu khân may kah gĭt ma khân may, jêh ri khân may mra klaih ma phung rlăng khân may. 10Tâm ban đŏng tâm nar khân may hâk maak, tâm nar nau nhêt sông tâm nal jêh, jêh ri ta bôk khay ma khân may, ăn khân may uh nŭng dôl khân may nhhơr ndơ nhhơr gŭch jêh ri dôl khân may ƀư brah nhhơr ndơ ma nau đăp mpăn. Khân păng mra kơl khân may geh nau ăn kah gĭt ta năp Brah Ndu khân may; gâp jêng Yêhôva Brah Ndu khân may."
Phung Ƀon Lan Israel Du Bơh Sinai
11Tâm năm rơh bar, khay bar, nar bar jê̆t khay nây tŭk hao leo kalơ tă bơh ngih bok nau mbơh, 12jêh ri phung ƀon lan Israel dâk hăn bơh bri rdah Sinai; jêh ri tŭk trŭnh gŭ tâm bri rdah Paran. 13Khân păng dâk hăn ntơm saơm tĭng nâm nau Yêhôva ntĭnh ma Y-Môis. 14Bok pla ma phung buklâu Yuda dâk hăn lor tĭng nâm phung khân păng; Y-Nahsôn, kon buklâu Y-Aminadap jêng kôranh ma phung tahan khân păng. 15Y-Nêthanel, kon bu klâu Y-Suar jêng kôranh ma phung tahan phung bu klâu mpôl Isakar. 16Y-Êliap kon buklâu Y-Hêlôn jêng kôranh ma phung tahan phung bu klâu mpôl Sabulôn. 17Tơ lah bu rơi lơi ngih bok, phung kon bu klâu Y-Gersôn jêh ri phung kon bu klâu Y-Mêrari, phung tung leo ngih bok dâk hăn. 18Bok pla phung Ruben dâk hăn tĭng nâm phung khân păng; Y-Êlisur kon buklâu Y-Sêdur jêng kôranh ma phung tahan khân păng. 19Y-Sêlumiel kon buklâu Y-Surisadai jêng kôranh ma phung tahan phung bu klâu mpôl Simêôn. 20Y-Êliasap kon buklâu Y-Dêuel jêng kôranh ma phung tahan phung bu klâu mpôl Gat. 21Jêh ri phung Kôhat dâk hăn, tung leo ndơ kloh ueh, jêh ri bu ndâk jêh ngih bok lor ma khân păng tât. 22Bok pla phung bu klâu mpôl Êphraim dâk hăn tĭng nâm phung khân păng Y-Êlisama, kon bu klâu Y-Amihut jêng kôranh ma phung tahan khân păng. 23Y-Gamaliel kon bu klâu Y-Pêsadur jêng kôranh ma phung tahan phung bu klâu mpôl Mananê. 24Y-Abidan kon bu klâu Y-Gidêôni jêng kôranh ma phung tahan bu klâu mpôl Benjamin. 25Jêh ri bok pla phung buklâu mpôl Dan dâk hăn tĭng nâm phung khân păng; khân păng jêng phung gak pakơi lĕ rngôch phung mpôl; Y-Ahiêser kon bu klâu Y-Amisadai jêng kôranh ma phung tahan khân păng. 26Y-Pagiel, kon buklâu Y-Ôkran jêng kôranh ma phung tahan phung buklâu mpôl Aser. 27Y-Ahira, kon buklâu Y-Ênan jêng kôranh ma phung tahan mpôl buklâu Naptali. 28Pô aơ jêng mbor phung ƀon lan Israel hăn tĭng nâm phung tahan khân păng, tơlah khân păng dâk hăn. 29Y-Môis lah ma Y-Hôbap, kon buklâu Y-Rêuel, du huê Madian, po buklâu Y-Môis, "Hên dâk hăn ma ntŭk Yêhôva lah jêh, Gâp mra ăn păng ma khân may! Hăn ndrel ma hên, jêh ri hên mra ƀư ueh ma may, yorlah Yêhôva ton jêh nau ueh ma phung Israel." 30Ƀiălah Y-Hôbap lah ma păng, "Gâp mâu mra hăn ôh; gâp mâu mra hăn ôh; gâp mra hăn ma n'gor gâp jêh ri phung ƀon lan gâp nơm." 31Jêh ri Y-Môis lah, "Gâp vơl dăn ma may, lơi ta du đah hên ôh, yorlah may gĭt ta ntŭk hên dơi njơh tâm bri rdah, jêh ri may jêng nâm bu măt ma hên. 32Jêh ri tơlah may hăn ndrel ma hên, moh nau ueh Yêhôva mra ƀư ma hên, pônây đŏng hên mra ƀư ueh đah may." 33Pôri khân may dâk hăn tă bơh yôk Yêhôva pe nar hăn; jêh ri hip nau tâm rnglăp Yêhôva hăn panăp khân păng pe nar hăn, gay joi du ntŭk rlu ma khân păng. 34Tŭk Yêhôva gŭ ta kalơ khân păng dôl nar tơlah khân păng dâk hăn tă bơh ntŭk njơh. 35Tơ lah hip dâk hăn, Y-Môis lah, "Dâk hăn hom may, Ơ Yêhôva, jêh ri ăn phung rlăng may nchuăt du pru-pra êng êng; jêh ri ăn phung tâm rmot ma may du panăp may." 36Jêh ri tơlah hip gŭ rlu, păng lah, "Plơ̆ sĭt hom, Ơ Yêhôva, ma rkeh rkai Israel."