49

Lời tiên tri về người Am-môn, Ê-đôm, Đa-mách, A-ra-bi, Phe-rơ-sơ

1 Về con cái Am-môn. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Y-sơ-ra-ên há chẳng có con trai sao? Há chẳng có con kế tự sao? Vì sao Minh-côm được lấy đất Gát làm cơ nghiệp, dân nó ở trong các thành của Gát? 2 Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, bấy giờ ta sẽ làm cho tiếng kêu về giặc giã vang ra nghịch cùng Ráp-bát, tức thành của con cái Am-môn, nó sẽ trở nên một đống đổ nát; các con gái nó sẽ bị lửa đốt cháy, bấy giờ Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm lấy những kẻ đã chiếm lấy mình, Đức Giê-hô-va phán vậy.
3 Hỡi Hết-bôn, hãy than khóc, vì A-hi đã bị cướp phá! Hỡi con gái Ráp-bát, hãy kêu la; hãy mang bao gai, chạy đi chạy lại giữa các hàng rào mà than khóc! Vì Minh-côm sẽ đi làm phu tù cùng các thầy tế lễ và các quan trưởng mình.
4 Hỡi con gái bội nghịch kia, sao khoe mình về các nơi trũng ngươi, về nơi trũng màu mỡ ngươi? Ngươi tin cậy ở của báu mình, và nói rằng: Ai đến được cùng ta? 5 Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Nầy, ta sẽ khiến sự kinh hãi từ mọi nơi chung quanh ngươi đến cùng ngươi; mỗi người trong các ngươi sẽ bị đuổi và chạy thẳng, chẳng ai sẽ thâu nhóm những người đi trốn. 6 Nhưng về sau ta sẽ đem các con cái Am-môn bị phu tù trở về, Đức Giê-hô-va phán vậy.
7 Về Ê-đôm. Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Trong Thê-man há không còn có sự khôn ngoan sao? Những người khôn đã dứt mưu luận của mình sao? Sự khôn ngoan của họ đã mất rồi sao? 8 Hỡi dân cư Đê-đan, hãy trốn, xây lưng lại, đi ở trong các chỗ sâu; vì ta sẽ khiến tai vạ của Ê-sau đến trên nó, là kỳ ta sẽ thăm phạt nó. 9 Kẻ hái nho đến nhà ngươi, há chẳng để sót lại một ít sao? Kẻ trộm ban đêm há chẳng hủy hoại cho đến mình có đủ sao? 10 Nhưng ta đã bóc lột hết Ê-sau, làm cho chỗ kín nó lõa lồ ra, không thể giấu mình được. Con cháu, anh em, kẻ lân cận nó đều bị diệt, và chính mình nó không còn. 11 Hãy bỏ những kẻ mồ côi của ngươi; chính ta sẽ giữ mạng sống chúng nó; các kẻ góa bụa của ngươi khá trông cậy ta!
12 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, những kẻ vốn không phải uống chén nầy, chắc sẽ uống lấy; và ngươi há khỏi hình phạt được hết sao? Ngươi sẽ không khỏi hình phạt, nhưng chắc sẽ uống chén ấy. 13 Đức Giê-hô-va phán: Vì ta đã chỉ chính mình ta mà thề, Bốt-ra sẽ nên gở lạ và sỉ nhục, bị phá tán và rủa sả; các thành nó sẽ trở nên gò đống đời đời. 14 Nầy là tin mà Đức Giê-hô-va cho ta nghe, và có một sứ giả được sai đến giữa các nước: Hãy nhóm lại đi đánh nó, hãy đứng dậy mà chiến đấu! 15 Vì nầy, ta đã làm ngươi nên nhỏ mọn giữa các nước, và bị khinh dể giữa người ta. 16 Hỡi ngươi ở trong bộng đá lớn, choán trên đỉnh núi kia, cho mình là đáng sợ, lòng kiêu ngạo đã dối trá ngươi; dầu ngươi lót ổ mình cao như ổ chim ưng, ta cũng làm cho ngươi từ đó rớt xuống, Đức Giê-hô-va phán vậy. 17 Ê-đôm sẽ nên gở lạ, mọi người đi qua sẽ lấy làm lạ; thấy tai vạ của nó, thì đều xỉ báng. 18 Ấy sẽ giống như sự hủy hoại của Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, Đức Giê-hô-va phán vậy. Ê-đôm sẽ không có người ở nữa, chẳng có một con người kiều ngụ tại đó. 19 Nầy, nó như sư tử lên từ các rừng rậm rạp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình ta sẽ làm cho Ê-đôm trốn khỏi, và ta sẽ lập người mà ta đã chọn để cai trị nó: Vì ai giống như ta? Ai sẽ định kỳ cho ta? Có kẻ chăn nào sẽ đứng trước mặt ta?
20 Vậy hãy nghe mưu Đức Giê-hô-va đã định nghịch cùng Ê-đôm, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng dân cư Thê-man: Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi; nơi ở chúng nó sẽ bị làm hoang vu. 21 Nghe tiếng chúng nó đổ xuống, đất đều chuyển động, tiếng kêu của chúng nó nghe thấu đến Biển Đỏ. 22 Nầy, kẻ thù bay như chim ưng, liệng và sè cánh nghịch cùng Bốt-ra. Ngày đó, lòng anh hùng Ê-đôm trở nên như lòng người đàn bà đang đẻ.
23 Về Đa-mách. Ha-mát và Ạt-bát đều bị hổ thẹn; vì chúng nó nghe tin xấu mà tan chảy: Biển đương đau đớn, không yên lặng được. 24 Đa mách đã trở nên yếu đuối, xây lại đi trốn, sự run rẩy đã bắt lấy nó: Sự buồn rầu đau đớn cầm lấy nó, như đàn bà đang đẻ. 25 Vậy người ta sao chẳng bỏ thành có tiếng khen, là thành làm sự vui vẻ cho ta? 26 Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Bởi vậy, trong ngày đó, những kẻ trai trẻ nó sẽ ngã trong các đường phố nó, mọi lính chiến sẽ phải nín lặng. 27 Ta sẽ đốt lửa nơi tường thành Đa-mách, nó sẽ thiêu hủy các cung điện Bên-Ha-đát.
28 Về Kê-đa và các nước ở Hát-so mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã đánh.
 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy đứng dậy, đi đánh Kê-đa, và phá diệt các con cái phương đông.
29 Chúng nó sẽ cất lấy trại và bầy vật chúng nó, cướp lấy màn cháng, đồ lề, và lạc đà, mà kêu lên cùng chúng nó rằng: Sự kinh hãi bao bọc các ngươi tư bề! 30 Đức Giê-hô-va phán: Hỡi dân cư Hát-so, hãy thoát mình! Hãy lánh đi xa! Hãy ở trong chỗ sâu, vì Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã toan mưu nghịch cùng các ngươi, định ý làm hại các ngươi.
31 Đức Giê-hô-va phán: Hãy đứng dậy, đi đánh dân ở yên ổn không lo lắng gì. Dân ấy không có cửa đóng, không có then chốt, và cũng ở một mình. 32 Những lạc đà nó sẽ làm của cướp, bầy vật đông đúc nó sẽ làm mồi. Ta sẽ làm cho những kẻ cạo râu chung quanh tan lạc khắp bốn phương; ta sẽ khiến tai vạ từ mọi nơi đến trên chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy. 33 Hát-so sẽ trở nên hang chó đồng, làm nơi hoang vu đời đời. Chẳng ai ở đó nữa, chẳng một con người nào trú ngụ tại đó!
34 Lúc Sê-đê-kia vua Giu-đa mới trị vì, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi, về Ê-lam, rằng: 35 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Nầy, ta sẽ bẻ cung của Ê-lam, là sức mạnh thứ nhất của nó. 36 Ta sẽ khiến bốn gió từ bốn phương trời thổi đến nghịch cùng Ê-lam, sẽ làm tan lạc chúng nó đến mọi gió đó; chẳng có nước nào mà những kẻ bị đuổi của Ê-lam chẳng đến. 37 Ta sẽ làm cho người Ê-lam kinh hãi trước mặt kẻ thù nghịch và kẻ đòi mạng chúng nó. Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ khiến sự tai hại, tức thạnh nộ phừng phừng của ta, đổ xuống trên chúng nó; và sai gươm theo sau, cho đến chừng nào ta hủy diệt chúng nó. 38 Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ đặt ngai ta trong Ê-lam; vua và các quan trưởng nó, ta sẽ diệt đi. 39 Nhưng sẽ xảy ra trong những ngày sau rốt, ta sẽ đem các phu tù của Ê-lam trở về, Đức Giê-hô-va phán vậy.

49

Boh Hiăp Yahweh Kơ Tơlơi Lŏn Čar Ammôn

1Anai yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp kơ tơlơi ƀing lŏn čar Ammôn:
  “Hiư̆m pă, lŏn čar Israel ƀu hơmâo ƀing đah rơkơi ôh hă?
   Ƀu hơmâo hlơi pô kiăng kơ mă tŭ anih lŏn kơnung djuai Gad ôh hă?
  Tui anŭn, yua hơget ƀing đaŏ kơ yang rơba̱ng Môlek hơmâo tŭ mă laih anih lŏn Gad jing kŏng ngăn gơñu pô lĕ?
   Yua hơget ƀing ană plei anŭn hơdip amăng khul plei pla anŭn lĕ?”
  2Yahweh pơhiăp tui anai, “Samơ̆ hrơi mông hlak truh
   tơdang Kâo či brơi kơ ƀing lŏn čar Ammôn hơmư̆ tơlơi arăng ayŭp đĭ dơnai tơlơi pơblah
   pơkơdơ̆ng glaĭ hăng plei phŭn Raƀah jing plei phŭn ƀing Ammôn anŭn yơh.
  Plei anŭn či jing hĭ ƀu̱r răm rai,
   laih anŭn khul plei pla jum dar ñu arăng ăt či čuh pơrai hĭ mơ̆n.
  Giŏng anŭn, ƀing lŏn čar Israel či puh tơbiă hĭ
   ƀing hlơi pô puh tơbiă hĭ laih ƀing gơñu hlâo adih.”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  3“Pơkrao bĕ, Ơ ƀing plei pơnăng Hesbôn, yuakơ plei Ai răm rai laih!
   Čŏk hia bĕ, Ơ ƀing mơnuih plei phŭn Raƀah hơi!
  Buh ao tâo kơŭ kơuăn bĕ.
   Jač amač đuaĭ bĕ pơ anih anai pơ anih adih gah lăm kơ khul pơnăng plei,
  yuakơ arăng či mă ba yang gih Môlek nao pơ lŏn čar ataih,
   hrŏm hăng ƀing khua ngă yang laih anŭn ƀing khua moa ñu mơ̆n.
  4Yua hơget ƀing gih pơang kơ khul dơnung ih,
   jing pơang kơ khul dơnung gih hơmâo boh čroh lu anŭn lĕ?
  Ơ ƀing ană plei ƀu tŏng ten hơi,
   ƀing gih đaŏ kơnang amăng tơlơi pơdrŏng săh gih hăng laĭ tui anai,
   ‘Ƀu hơmâo hlơi pô ôh khĭn kơsung blah ƀing gơmơi lĕ?’
  5Kâo, Yahweh, či ba tơlơi pơhuĭ ƀơi ƀing gih
   mơ̆ng abih bang bơnăh jum dar gih yơh.
  Rĭm čô amăng ƀing gih arăng či puh pơđuaĭ hĭ,
   laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô ôh thâo pơƀut glaĭ ƀing đuaĭ kơdŏp.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Khua Yang, Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp pơhaih laih.

  6“Samơ̆ tơdơi kơ anŭn, Kâo či rŭ̱ pơdơ̆ng glaĭ tơlơi đĭ kơyar ƀing Ammôn yơh.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

Boh Hiăp Yahweh Kơ Tơlơi Lŏn Čar Edôm

7Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp kơ tơlơi ƀing lŏn čar Edôm:
  “Dŏ hơmâo mơ̆ tơlơi rơgơi amăng ƀing Edôm?
   Hiư̆m ngă tơlơi djru pơmĭn rơngiă hĭ mơ̆ng pô thâo pơmĭn ƀing Edôm hă?
   Hiư̆m ngă tơlơi rơgơi gơñu rơngiă hĭ laih hă?
  8Ơ ƀing hơdip amăng plei Dedan,
   wĕh hĭ hăng đuaĭ kơdŏp bĕ, dŏ kơdŏp bĕ amăng khul pa̱r dơlăm,
  yuakơ Kâo či ba rai tơlơi răm rai ƀơi ană tơčô Esâo,
   jing ƀơi mông Kâo pơkơhma̱l hĭ ƀing gơñu yơh.
  9Tơdang arăng duñ boh kơƀâo,
   ƀing gơñu juăt pioh glaĭ ƀiă boh kơƀâo kơ ƀing ƀun rin.
  Laih anŭn tơdang ƀing klĕ rai tơdang mlam,
   ƀing gơñu klĕ mă dơ̆ pă ƀing gơñu kiăng yơh.
  10Samơ̆ bơ kơ Kâo, Kâo či mă pơđuaĭ hĭ ƀing ană tơčô Esâo hrŏm hăng mŭk dram gơñu yơh.
   Kâo či pŏk hĭ khul anih kơdŏp gơñu,
   kiăng kơ ƀing gơñu ƀu dưi pơdŏp hĭ gơñu pô dơ̆ng tah.
  Ană bă gơñu, ƀing adơi ai gơñu hăng ƀing re̱ng gah gơñu či răm rơngiă hĭ,
   laih anŭn lŏn čar gơñu ƀu či dŏ dơ̆ng tah.
  11Đuaĭ lui hĭ bĕ ƀing ană tơhrit,
   yuakơ Kâo či răk wai brơi ƀing gơñu.
   Ăt ƀing bơnai kơmai gih mơ̆n dưi đaŏ kơnang kơ Kâo.”
12Anai yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp, “Kâo brơi kơ ƀing hlơi pô ƀu năng lăp tŭ tơlơi pơkơhma̱l kiăng kơ mơñum mơ̆ng kơčŏk pơkơhma̱l. Tui anŭn, yua hơget ƀing gih pơmĭn ƀing gih khŏm ƀu mơñum ôh mơ̆ng kơčŏk pơkơhma̱l lĕ? Ƀing gih khŏm mơñum mơ̆ng kơčŏk anŭn yơh! Ƀing gih khŏm tŭ tơlơi pơkơhma̱l yơh! 13Kâo, Yahweh, ƀuăn hăng anăn Kâo pô kơ tơlơi plei phŭn gih Bozrah či jing hĭ răm rai laih anŭn jing kar hăng gơnam pơhuĭ, gơnam arăng djik djak laih anŭn arăng yua anăn plei anŭn kiăng kơ hơtŏm păh kơ mơnuih pơkŏn yơh. Laih anŭn abih bang khul plei pla anih lŏn anŭn či tŭ răm rai hĭ hlŏng lar yơh.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  14Ơ ƀing Edôm hơi, kâo, Yirmeyah, hơmư̆ laih boh hiăp mơ̆ng Yahweh tui anai:
   Yahweh pơkiaŏ nao sa tơpul ding kơna pơala pơ ƀing lŏn čar kiăng kơ laĭ tui anai,
  “Pơƀut glaĭ bĕ gih pô kiăng kơ tơlơi pơblah!
   Prap pre bĕ kiăng kơ kơsung blah lŏn čar Edôm!”

  15“Ơ lŏn čar Edôm, ră anai Kâo, Yahweh, či ngă brơi kơ ih jing hĭ tơdu tŏng krah ƀing lŏn čar,
   jing hĭ kar hăng gơnam mơnuih mơnam či djik djak yơh.
  16Ơ pô hơdip amăng khul hơ̆ng dơ̆ng pơtâo hơi,
   jing pô dŏ amăng anih glông ƀơi čư̆ čan.
  Tơlơi pơgao pran jua ih hơmâo pơƀlŏr hĭ laih ih pô,
   yuakơ tơlơi pơhuĭ ih pơphŭn rai amăng ƀing lŏn čar,
  wơ̆t tơdah ih pơdơ̆ng đĭ anih dŏ ih glông kar hăng čim si̱ng pơkra hruh ñu,
   mơ̆ng anih anŭn yơh Kâo či pơtrŭn hĭ ih.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  17“Edôm či jing hĭ kar hăng sa gơnam pơhuĭ yơh.
   Abih bang ƀing mơnuih găn rai či jing hĭ ƀlơ̆ kơtuă laih anŭn či kơhak kơčŭh yơh
   yuakơ abih bang tơlơi glưh pơčah ñu anŭn.
  18Kar hăng plei pơnăng Sedôm hăng plei pơnăng Gomôrrah răm rai đưm hlâo adih yơh,
   wơ̆t hăng khul plei pla jum dar anŭn mơ̆n,
   ăt tui anŭn mơ̆n ƀu či hơmâo hlơi pô hơdip pơ lŏn čar Edôm ôh.
  Ƀu hơmâo hlơi pô dŏ amăng anŭn dơ̆ng tah.”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  19“Kar hăng sa drơi rơmung dŭl đĭ rai mơ̆ng glai kơpa̱l kơtuai krong Yurdan
   nao pơ anih đang rơ̆k mơda kiăng kơ hơduah hlô mơnơ̆ng yơh,
   tui anŭn Kâo ăt či puh pơđuaĭ hĭ ƀing lŏn čar Edôm mơtam mơ̆ng anih lŏn gơñu nao pơ anih ataih mơ̆n.
  Kâo či ruah pô git gai gơñu.
   Hlơi jing pô hrup hăng Kâo laih anŭn jing pô khĭn bưp Kâo lĕ?
   Khua git gai pă dưi dŏ dơ̆ng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo lĕ?”
  20Hơnŭn yơh, hơmư̆ bĕ tơlơi Kâo, Yahweh, hơmâo pơkra laih hơdră pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Edôm wơ̆t hăng plei Têman,
   jing tơlơi Kâo hơmâo pơphŭn rai kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing hơdip amăng anih anŭn tui anai:
  Ƀing rŏh ayăt Edôm či puh pơđuaĭ hĭ ƀing ană plei wơ̆t hăng ƀing čơđai kar hăng dui pơđuaĭ hĭ ană tơpul triu bơbe yơh.
   Laih anŭn ƀing gơñu či pơrai hĭ hlo̱m ƀo̱m đang hơma đang rơ̆k hăng sang ƀing gơ̆
   laih anŭn anih lŏn ƀing gơ̆ či jing hĭ rơngol yơh.
  21Dơnai tơlơi lê̆ rơbuh ƀing gơ̆ či jing prŏng biă mă tơl lŏn tơnah či tơtư̆ tơtơ̆ng.
   Tơlơi ur gơñu či rơuăng truh pơ Rơsĭ Mriah gah thu̱ng yơh.
  22Lăng bĕ! Kar hăng sa drơi čim si̱ng, ƀing rŏh ayăt Edôm, či juang hyu laih anŭn pŏr hŭp trŭn,
   blang čăng ñu ƀơi ngŏ plei phŭn Bozrah yơh.
  Amăng hrơi anŭn khul pran jua ƀing tơhan khĭn kơtang Edôm
   či jing hĭ huĭ biă mă kar hăng pran jua sa čô đah kơmơi dŏ đih apui yơh.

Boh Hiăp Yahweh Kơ Tơlơi Ƀing Plei Phŭn Damaskus

23Anai yơh jing boh hiăp laĭ kơ plei phŭn Damaskus:
  “Plei pơnăng Hamat hăng plei pơnăng Arpad dŏ kơtuă yơh,
   yuakơ ƀing gơñu hơmâo hơmư̆ laih tơlơi sat truh pơ plei phŭn Damaskus anŭn.
  Ƀing ană plei dua boh plei anŭn ƀlơ̆ng bơngơ̆t,
   rŭng răng kar hăng rơsĭ klă̱ klŭng klăng ƀu thâo pơdơi yơh.
  24Ƀing Damaskus hơmâo jing hĭ laih tơdu rơmơ̆n.
   Ƀing gơñu hơmâo wĕh hĭ kiăng kơ đuaĭ kơdŏp yơh
   yuakơ huĭ bra̱l biă mă.
  Tơlơi rŭng răng hăng ruă nuă hơmâo păn mă laih ƀing gơñu,
   jing ruă kar hăng sa čô đah kơmơi đih apui yơh.
  25Hlâo adih Kâo hơ̆k mơak hăng plei anŭn, jing plei arăng pơdun đĭ,
   samơ̆ ră anai plei anŭn jing hĭ plei ƀu hiam ôh,
   hiư̆m pă ƀing ană plei aka lui hĭ ôh lĕ?
  26Amăng hrơi anŭn, ƀing hlak ai rơkơi či djai hĭ mơ̆ng tơlơi pơblah ƀơi khul jơlan plei Damaskus yơh,
   laih anŭn abih bang ƀing ling tơhan ñu, ƀing rŏh ayăt či pơdjai hĭ tơl dŏ rơiăt hĭ yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp pơhaih laih.
  27“Kâo, Yahweh, či čuh hĭ khul pơnăng plei Damaskus.
   Kâo či brơi apui ƀơ̆ng hĭ khul kơđông kơjăp pơtao Ben-Hadad hơmâo pơdơ̆ng đĭ hlâo adih yơh.”

Boh Hiăp Yahweh Kơ Tơlơi Ƀing Kơnung Djuai Kêdar Hăng Plei Pơnăng Hazôr

28Anai yơh jing boh hiăp Yahweh kơ tơlơi ƀing kơnung djuai Kêdar hăng khul anih jum dar plei pơnăng Hazôr, jing anih Nebukhadnezzar pơtao prŏng lŏn čar Babilon kơsung blah laih:
  “Tơgŭ bĕ Ơ ƀing Babilon hơi, hăng kơsung blah bĕ ƀing Kêdar
   jing pơrai hĭ bĕ ƀing mơnuih amăng anih gah Ngŏ̱ anŭn.
  29Mă pơđuaĭ hĭ bĕ khul sang khăn gơñu wơ̆t hăng tơpul hlô mơnơ̆ng gơñu mơ̆n.
   Mă pơđuaĭ hĭ bĕ khăn păng sang jưh gơñu
   wơ̆t hăng abih bang gơnam gơñu.
  Ăt mă hĭ bĕ khul aseh samô gơñu mơ̆n,
   hăng ur dreo bĕ pơ ƀing gơñu tui anai,
   ‘Tơlơi pơhuĭ dŏ ƀơi djŏp bơnăh!’

  30“Ơ ƀing ană plei Hazôr hơi,
   đuaĭ kơdŏp tañ bĕ!
  Dŏ kơdŏp bĕ amăng khul pa̱r dơlăm.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  “Nebukhadnezzar pơtao prŏng dêh čar Babilon hơmâo pơkra laih mơneč kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gih.
   Ñu hơmâo pơphŭn laih hơdră ñu kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gih.

  31“Ơ ƀing Babilon hơi, tơgŭ kơsung blah bĕ ƀing dŏ rơnŭk hơđơ̆ng,
   jing ƀing pơmĭn kơ tơlơi ƀing gơñu dŏ amăng tơlơi kơjăp hơđơ̆ng anŭn,
  samơ̆ ƀing gơñu ƀu hơmâo khul amăng ja̱ng kŏn hơmâo čơnŭh khuă lơi.
   Ană plei anŭn kơnơ̆ng hơdip hơjăn păn đôč ƀu hơmâo ƀing gŏp djru kơ ƀing gơñu ôh.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  32“Khul aseh samô gơñu či jing hĭ gơnam sua mă gih,
   laih anŭn khul hlô mơnơ̆ng lu gơñu či jing hĭ gơnam ƀing gih či mă hĭ yơh.
  Ƀing hlơi pô dŏ amăng khul anih ataih, Kâo či pơčơlah hĭ pơ djŏp djang anih
   laih anŭn či ba rai tơlơi răm rai ƀơi ƀing gơñu mơ̆ng rĭm bơnăh yơh.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  33“Tring ƀing kơnung djuai Hazôr či jing hĭ anih dŏ kơ khul asâo tan yơh,
   jing hĭ anih rơngol hlŏng lar yơh.
  Ƀu hơmâo hlơi pô či hơdip pơ anŭn ôh.
   Ƀu hơmâo hlơi pô či dŏ amăng anih anŭn dơ̆ng tah.”

Boh Hiăp Yahweh Kơ Tơlơi Lŏn Čar Êlam

34Ƀơi akŏ rơnŭk Zidkiyah pơtao lŏn čar Yudah git gai wai lăng, Yahweh brơi boh hiăp anai kơ kâo, pô pơala Yirmeyah, kơ tơlơi lŏn čar Êlam.
35Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp:
  “Tơlơi kơtang ƀing lŏn čar Êlam jing ƀing tơhan pơnăh hraŏ,
   samơ̆ Kâo či pơjŏh hĭ khul hraŏ gơñu anŭn.
  36Kâo či ba rai pă̱ glung angĭn pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing Êlam
   mơ̆ng pă̱ akiăng adai adih yơh.
  Kâo či pơčơlah hĭ ƀing gơñu tui hăng pă̱ glung angĭn,
   tơl ƀu či hơmâo lŏn čar pă ôh
   jing anih ƀing Êlam ƀu hơmâo đuaĭ nao dŏ ôh.
  37Kâo či pơhuĭ pơbra̱l hĭ ƀing Êlam ƀơi anăp rŏh ayăt gơñu,
   jing ƀơi anăp ƀing hlơi pô kiăng pơdjai hĭ ƀing gơñu yơh.
  Kâo či ba rai tơlơi răm rai ƀơi ƀing Êlam,
   yuakơ tơlơi hil nač ƀrŭk ƀrăk Kâo yơh.
  Kâo ăt či pơkiaŏ ƀing rŏh ayăt kiaŏ pơdjai hĭ ƀing gơñu hăng đao gưm
   tơl Kâo hơmâo pơrai hĭ abih bang ƀing gơñu yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  38“Kâo či pơrai hĭ pơtao lŏn čar Êlam wơ̆t hăng ƀing khua moa ñu mơ̆n,
   laih anŭn Kâo či git gai lŏn čar anŭn pơala kơ ƀing gơñu yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  39“Samơ̆ Kâo či rŭ̱ pơdơ̆ng glaĭ tơlơi đĭ kơyar Êlam
   amăng khul hrơi pơanăp.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.