7

Thầy đội ở thành Ca-bê-na-um

(Mat 8:5-13)

1 Khi Đức Chúa Jêsus rao giảng xong mọi lời ấy trước mặt dân chúng nghe rồi, thì Ngài vào thành Ca-bê-na-um.
2 Vả, một thầy đội kia có đứa đầy tớ rất thiết nghĩa đau gần chết, 3 nghe nói Đức Chúa Jêsus, bèn sai mấy trưởng lão trong dân Giu-đa xin Ngài đến chữa cho đầy tớ mình. 4 Mấy người đó đến cùng Đức Chúa Jêsus, mà nài xin rằng: Thầy đội thật đáng cho thầy nhậm điều nầy; 5 vì người yêu dân ta, và đã cất nhà hội cho chúng tôi. 6 Đức Chúa Jêsus bèn đi với họ. Khi Ngài gần tới nhà, thầy đội sai bạn hữu mình đi thưa Ngài rằng: Lạy Chúa, xin đừng tự phiền đến thế, vì tôi không đáng rước Chúa vào nhà tôi. 7 Tôi cũng nghĩ mình không đáng đến cùng Chúa; song xin phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành. 8 Vì chính mình tôi là người thuộc dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có quân lính dưới quyền tôi; tôi biểu tên nầy rằng: Hãy đi! Thì nó đi; biểu tên khác rằng: Hãy đến! Thì nó đến; và biểu đầy tớ tôi rằng: Hãy làm việc nầy! Thì nó làm. 9 Đức Chúa Jêsus nghe những lời ấy, lấy làm lạ cho thầy đội, bèn xây lại cùng đoàn dân theo mình, mà phán rằng: Ta nói cùng các ngươi, dầu trong dân Y-sơ-ra-ên, ta cũng chưa thấy một đức tin lớn dường ấy. 10 Những kẻ sai đến trở về nhà, thấy đầy tớ lành mạnh.

Người trai trẻ ở Na-in

11 Bữa sau, Đức Chúa Jêsus đi đến một thành, gọi là Na-in, có nhiều môn đồ và một đoàn dân đông cùng đi với Ngài. 12 Khi Ngài đến gần cửa thành, họ vừa khiêng ra một người chết, là con trai một của mẹ góa kia; có nhiều người ở thành đó đi đưa với bà góa ấy. 13 Chúa thấy, động lòng thương xót người, mà phán rằng: Đừng khóc! 14 Đoạn, Ngài lại gần, rờ quan tài, thì kẻ khiêng dừng lại. Ngài bèn phán rằng: Hỡi người trẻ kia, ta biểu ngươi chờ dậy. 15 Người chết vùng ngồi dậy và khởi sự nói. Đức Chúa Jêsus giao người lại cho mẹ. 16 Ai nấy đều sợ hãi, và ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: Có đấng tiên tri lớn đã dấy lên giữa chúng tôi, và Đức Chúa Trời đã thăm viếng dân Ngài. 17 Tin nầy đồn ra khắp xứ Giu-đê, và khắp xứ xung quanh nơi đó nữa.

Sự thăm hỏi của Giăng Báp-tít

(Mat 11:2-19)

18 Môn đồ của Giăng trình lại hết cả chuyện đó với người. 19 Người bèn gọi hai môn đồ mình, sai đến thưa cùng Chúa rằng: Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác? 20 Hai người đã đến cùng Đức Chúa Jêsus, thưa rằng: Giăng Báp-tít sai chúng tôi đến hỏi thầy: Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác? 21 Vả, chính giờ đó, Đức Chúa Jêsus chữa lành nhiều kẻ bịnh, kẻ tàn tật, kẻ mắc quỉ dữ, và làm cho nhiều người đui được sáng. 22 Đoạn, Ngài đáp rằng: Hãy về báo cho Giăng sự các ngươi đã thấy và đã nghe: Kẻ đui được sáng, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, Tin lành đã rao giảng cho kẻ nghèo. 23 Phước cho kẻ không vấp phạm vì cớ ta!
24 Hai người của Giăng sai đến đã đi rồi, Đức Chúa Jêsus mới phán cùng đoàn dân về việc Giăng rằng: Các ngươi đã đi xem chi nơi đồng vắng? Xem cây sậy bị gió rung chăng?… 25 Lại các ngươi còn đi xem gì? Xem người ăn mặc tốt đẹp chăng? Kìa, những người mặc áo sang trọng, và ăn ở sung sướng, thì ở trong đền đài các vua! 26 Song, rốt lại, các ngươi đi xem gì? Xem một đấng tiên tri ư? Phải, ta nói, một đấng trọng hơn tiên tri nữa. 27 Ấy về đấng đó mà có lời chép rằng:
 Nầy, ta sẽ sai sứ ta đến trước mặt ngươi,
 Người sẽ dọn đường trước ngươi.
28 Ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai lớn hơn Giăng Báp-tít đâu; nhưng trong nước Đức Chúa Trời, kẻ rất nhỏ còn lớn hơn Giăng vậy. 29 Cả dân chúng cùng kẻ thâu thuế chịu Giăng làm phép báp-têm, đều xưng Đức Chúa Trời là công bình. 30 Song người Pha-ri-si cùng các thầy dạy luật không chịu Giăng làm phép báp-têm, nên chê bỏ ý Đức Chúa Trời định về mình.
31 Vậy, ta sẽ sánh người đời nầy với gì, họ giống như ai? 32 Họ giống như con trẻ ngồi ngoài chợ, nói cùng nhau rằng: Ta đã thổi sáo, mà bay không nhảy múa; ta đã than vãn, mà bay không khóc. 33 Vả, Giăng Báp-tít đã đến, không ăn bánh, không uống rượu; thì các ngươi nói rằng: Người mắc quỉ dữ. 34 Con người đến, ăn và uống, thì các ngươi nói rằng: Ấy đó là người ham ăn mê uống, bạn với người thâu thuế và kẻ có tội. 35 Song sự khôn ngoan được xưng công bình nhờ những việc làm của nó.

Người đàn bà có tội được tha thứ

36 Có một người Pha-ri-si mời Đức Chúa Jêsus ăn tại nhà mình. Vậy, khi đã vào nhà người Pha-ri-si thì Ngài ngồi bàn. 37 Vả, có một người đàn bà xấu nết ở thành đó, nghe nói Đức Chúa Jêsus đương ngồi bàn tại nhà người Pha-ri-si, bèn đem đến một bình ngọc trắng đựng đầy dầu thơm. 38 Người đứng đằng sau, nơi chân Đức Chúa Jêsus, khóc, sa nước mắt trên chân Ngài, rồi lấy tóc mình mà chùi; lại hôn chân Ngài, và xức dầu thơm cho. 39 Người Pha-ri-si đã mời Ngài, thấy vậy, tự nghĩ rằng: Nếu người nầy là đấng tiên tri, chắc biết người đàn bà rờ đến mình đó là ai, cùng biết ấy là người đàn bà xấu nết. 40 Đức Chúa Jêsus bèn cất tiếng phán cùng người rằng: Hỡi Si-môn, ta có vài lời nói cùng ngươi. Người thưa rằng: Thưa thầy, xin cứ nói.
41 Một chủ nợ có hai người mắc nợ: Một người mắc năm trăm đơ-ni-ê, một người mắc năm chục. 42 Vì hai người đều không có chi mà trả, nên chủ nợ tha cả hai. Trong hai người đó, ai yêu chủ nợ hơn? 43 Si-môn thưa rằng: Tôi tưởng là người mà chủ nợ đã tha nhiều nợ hơn. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đoán phải lắm. 44 Đoạn, Ngài xây lại người đàn bà mà phán cùng Si-môn rằng: Ngươi thấy đàn bà nầy không? Ta vào nhà ngươi, ngươi không cho nước rửa chân; nhưng người đã lấy nước mắt thấm ướt chân ta, rồi lấy tóc mình mà chùi. 45 Ngươi không hôn ta, nhưng người từ khi vào nhà ngươi, thì hôn chân ta hoài. 46 Ngươi không xức dầu đầu ta; nhưng người lấy dầu thơm xức chân ta. 47 Vậy nên ta nói cùng ngươi, tội lỗi đàn bà nầy nhiều lắm, đã được tha hết, vì người đã yêu mến nhiều; song kẻ được tha ít thì yêu mến ít. 48 Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: Tội lỗi ngươi đã được tha rồi. 49 Các người ngồi bàn với Ngài nghĩ thầm rằng: Người nầy là ai, mà cũng tha tội? 50 Nhưng Ngài phán cùng người đàn bà rằng: Đức tin của ngươi đã cứu ngươi; hãy đi cho bình an.

7

Yêsu Pơsuaih Sa Čô Hlŭn Khua Tơhan Dêh Čar Rôm

(Mathiơ 8:5-13)

1Tơdơi kơ Yêsu pơtô laĭ giŏng laih kơ ƀing ană plei ƀơi anih anŭn, Ñu mŭt nao pơ plei Kapharnaoum. 2Pơ anŭn hơmâo sa čô khua tơhan hơmâo sa čô hlŭn, jing pô ñu khăp biă mă, samơ̆ gơ̆ hlak ruă jĕ či djai laih. 3Tơdang pô khua anŭn hơmư̆ hing kơ Yêsu, ñu pơkiaŏ ƀing kŏng tha Yehudah nao rơkâo Yêsu rai kiăng kơ pơsuaih brơi hlŭn ñu. 4Tơdang ƀing gơñu nao truh pơ Yêsu, ƀing gơñu pơđu̱r rơkâo tui anai, “Pô khua tơhan anai lăp kơ Ih djru brơi yơh, 5yuakơ ñu khăp kơ ƀing ană plei ta laih anŭn hơmâo pơkra brơi laih sang jơnum kơ ƀing ta.”
6Tui anŭn, Yêsu nao hrŏm hăng ƀing gơñu. Tơdang Yêsu nao jĕ truh pơ sang pô khua anŭn laih, pô khua anŭn pơkiaŏ rai gơyut ñu laĭ hăng Yêsu tui anai, “Ơ Khua ăh, anăm Ih pơgleh Ih pô ôh, yuakơ kâo ƀu năng lăp ôh ju̱m Ih mŭt amăng sang kâo. 7Hơnŭn yơh, kâo ăt pơmĭn mơ̆n kâo ƀu lăp ôh nao pơ Ih. Samơ̆ rơkâo kơ Ih pơhiăp bĕ sa boh hiăp tui anŭn brơi kơ hlŭn kâo suaih hĭ. 8Kâo rơkâo tui anŭn yuakơ kâo ăt tui gưt khua kâo mơ̆n. Kâo ăt hơmâo mơ̆n ƀing tơhan dŏ gah yŭ kơ tơlơi dưi kâo. Tơdah kâo pơđar kơ pô anai, ‘Nao bĕ,’ gơ̆ nao mơtam, laih anŭn kơ pô anŭn, ‘Rai bĕ,’ gơ̆ rai mơtam; laih anŭn tơdah kâo pơđar kơ hlŭn kâo tui anai, ‘Ngă bĕ tơlơi anai,’ gơ̆ ngă mơtam yơh.”
9Tơdang Yêsu hơmư̆ tơlơi anŭn, Ñu hli̱ng hla̱ng biă mă, tui anŭn, Ñu wir glaĭ pơhiăp hăng ƀing mơnuih lu đuaĭ tui Ñu tui anai, “Kâo laĭ kơ ƀing gih, wơ̆t tơdah amăng ƀing ană plei Israel, kâo aka ƀuh ôh hlơi pô hơmâo tơlơi đaŏ prŏng kar hăng pô anai.”
10Giŏng anŭn, tơdang ƀing gơyut khua anŭn wơ̆t glaĭ pơ sang khua anŭn, ƀing gơñu ƀuh hlŭn anŭn suaih laih.

Yêsu Pơhơdip Glaĭ Ană Tơdăm Sa Čô Bơnai Kơmai

11Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Yêsu nao pơ sa boh plei anăn Nain. Hơmâo ƀing ding kơna Ñu wơ̆t hăng ƀing mơnuih lu ăt nao hrŏm hăng Ñu mơ̆n. 12Tơdang Ñu nao jĕ truh pơ amăng ja̱ng plei anŭn, hơmâo ƀing mơnuih čơkŭng tơbiă atâo djai mơ̆ng plei; pô atâo djai anŭn jing ană tơdăm amĭ gơ̆ hơmâo kơnơ̆ng ha čô gơ̆ anŭn đôč, laih anŭn amĭ gơ̆ anŭn jing đah kơmơi kơmai. Hơmâo lu mơnuih biă mă mơ̆ng plei anŭn tơbiă hrŏm hăng gơ̆.
13Tơdang Khua Yang ƀuh đah kơmơi anŭn, Ñu glưh pran jua pap drap kơ gơ̆ laih anŭn pơjuh gơ̆ tui anai, “Anăm hia dơ̆ng tah.” 14Giŏng anŭn, Ñu nao jĕ ruaih ƀơi driah čơkŭng laih anŭn ƀing čơkŭng anŭn dơ̆ng hĭ. Tui anŭn, Ñu pơhiăp, “Ơ dăm hơi, kâo pơđar kơ ih, tơgŭ bĕ!” 15Pô tơdăm djai anŭn hơdip glaĭ pơyôt tơgŭ laih anŭn čơdơ̆ng pơhiăp yơh. Giŏng anŭn, Yêsu jao glaĭ gơ̆ kơ amĭ gơ̆.
16Abih bang ƀing gơñu le̱ng kơ huĭ pơpŭ soh sel laih anŭn bơni hơơč kơ Ơi Adai tui anai, “Hơmâo sa čô pô pơala prŏng hơmâo rai laih amăng tŏng krah ƀing ta! Tơlơi anai kiăng laĭ: Ơi Adai hơmâo rai djru laih ƀing ană plei Ñu!”
17Tơlơi pơthâo anai ră ruai kơ Yêsu lar hyu djŏp djang anih amăng abih tring Yudea wơ̆t hăng amăng tring jum dar anŭn mơ̆n.

Tơlơi Yôhan Pô Ngă Baptem Tơña Kơ Yêsu

(Mathiơ 11:2-19)

18Ƀing ding kơna Yôhan ruai glaĭ kơ Yôhan abih bang tơlơi Yêsu hơmâo ngă laih. 19Tui anŭn, Yôhan iâu rai dua čô ding kơna ñu laih anŭn pơkiaŏ ƀing gơ̆ nao tơña Khua Yang tui anai, “Djơ̆ mơ̆, Ih jing Pô Messiah ƀing pô pơala laĭ lui hlâo laih, khŏm či rai, ƀôdah ƀing gơmơi či dŏ tơguan Pô pơkŏn dơ̆ng?”
20Tơdang dua čô ding kơna anŭn nao truh laih pơ Yêsu, ƀing gơñu laĭ tui anai, “Yôhan pô ngă baptem hơmâo pơkiaŏ rai ƀing gơmơi kiăng kơ tơña Ih tui anai, ‘Djơ̆ mơ̆, Ih jing Pô ƀing pô pơala laĭ lui hlâo laih, khŏm či rai, ƀôdah ƀing gơmơi či dŏ tơguan pô pơkŏn dơ̆ng?’ ”
21Ƀơi mông anŭn, Yêsu hlak pơhla̱o hĭ lu mơnuih ruă nuă, ruă khe̱ng laih anŭn mơnuih yang sat ngă. Lu mơnuih bum mơta Ñu pơsuaih hĭ dưi ƀuh. 22Giŏng anŭn, Ñu laĭ glaĭ kơ ƀing dua anŭn tui anai, “Nao ruai glaĭ bĕ kơ Yôhan abih bang bruă ƀing gih hơmâo ƀuh hăng hơmư̆ laih kar hăng anai: Mơnuih bum mơta dưi ƀuh, mơnuih rơwen dưi rơbat, ƀing mơnuih djơ̆ phŭng dưi hla̱o rơgoh, mơnuih tơngĭl dưi hơmư̆, mơnuih djai dưi hơdip glaĭ laih anŭn mơnuih ƀun rin dưi hơmư̆ tơlơi pơthâo hiam. 23Mơyŭn mơak yơh kơ hlơi pô ƀu đing đaŏ ôh samơ̆ ăt dŏ đaŏ kơ Kâo.”
24Tơdang ƀing ding kơna Yôhan hơmâo đuaĭ laih, Yêsu čơdơ̆ng pơhiăp hăng ƀing mơnuih lu kơ tơlơi Yôhan tui anai, “Hlơi ƀing gih čang rơmang laih kiăng kơ nao lăng amăng tơdron tač lĕ? Ƀing gih čang rơmang kiăng kơ lăng sa čô mơnuih tơdu hrup hăng sa ƀĕ phŭn rơ̆k trang bo angĭn pưh gô hă? 25Tơdah ƀu djơ̆ tui anŭn ôh, hlơi ƀing gih tơbiă nao lăng laih lĕ? Ƀing gih nao lăng mơnuih čut sum ao hiam hă? Adih dih, ƀing čut sum ao hiam ƀơ̆ng gơnam jơma̱n dŏ amăng sang pơtao yơh. 26Tơdah ƀu djơ̆ tui anŭn ôh, hlơi ƀing gih tơbiă nao lăng laih lĕ? Nao lăng pô pơala hă? Djơ̆ yơh, Kâo laĭ kơ ƀing gih, pô anŭn yom hloh kơ pô pơala mơ̆n. 27Kơ Yôhan anŭn yơh Hră Ơi Adai hơmâo čih laih tui anai,
  “Ơi Adai laĭ: Anai nê, Kâo pơkiaŏ pô ding kơna pơthâo Kâo nao hlâo kơ Ih,
   ñu či prap rơmet jơlan Ih ƀơi anăp Ih.
28“Kâo laĭ kơ ƀing gih, amăng abih bang rơnŭk ƀing mơnuih hơdip ƀơi lŏn tơnah, ƀu hơmâo ôh hlơi pô yom hloh kơ Yôhan pô ngă baptem; samơ̆ mơnuih amăng ană plei Dêh Čar Ơi Adai wơ̆t tơdah ƀu yom pơphan ôh samơ̆ ñu jing yom pơphan hloh kơ Yôhan pô ngă baptem yơh.”
29Tơdang ƀing gơñu hơmư̆ tơlơi anai, abih bang ƀing ană plei wơ̆t hăng ƀing ring jia mơ̆n, jing ƀing tŭ Yôhan ngă brơi laih baptem, tŭ ư Ơi Adai jing tơpă hơnơ̆ng yơh. 30Samơ̆ ƀing khua Pharisai hăng ƀing nai pơtô tơlơi juăt, jing ƀing ƀu tŭ ôh Yôhan ngă brơi baptem, hơngah lui hĭ tơlơi kơñăm Ơi Adai brơi kơ ƀing gơñu.
31Yêsu pơhiăp dơ̆ng, “Tui anŭn, Kâo či pơhơmu ƀing mơnuih ƀu đaŏ rơnŭk anai hăng hơget lĕ? Ƀing gơñu hrup hăng hlơi lĕ? 32Ƀing gơñu hrup hăng ƀing čơđai dŏ be̱r ƀơi sang sĭ mơnia pơhiăp kơ tơdruă gơñu tui anai,
  “ ‘Ƀing gơmơi ayŭp laih đing klơt ayŭ mơak kiăng kơ ƀing gih suang,
   samơ̆ ƀing gih hơngah ƀu suang ôh;
  ƀing gơmơi hơmâo čŏk pơkrao laih kiăng kơ ƀing gih hia,
   samơ̆ ƀing gih hơngah ƀu hia rơngot ôh.’
33“Kâo laĭ tui anŭn, yuakơ Yôhan pô ngă baptem hơmâo rai laih; ñu ƀu ƀơ̆ng ƀañ tơpŭng ôh kŏn mơñum tơpai lơi, laih anŭn ƀing gih laĭ, ‘Ñu hơmâo yang sat ngă.’ 34Samơ̆ Kâo, jing Ană Mơnuih, hơmâo rai laih, ƀơ̆ng huă hăng mơñum laih anŭn ƀing gih laĭ, ‘Lăng, ñu jing mơnuih ră̱ ƀơ̆ng ră̱ mơñum, ngă gơyut gơyâo hăng ƀing ring jia laih anŭn hăng ƀing mơnuih soh sat pơkŏn.’ 35Samơ̆ abih bang ƀing hlơi gưt tui tơlơi rơgơi Ơi Adai, sĭt ƀing gơñu thâo krăn yơh tơlơi rơgơi Ơi Adai anŭn jing tơpă sĭt.”

Yêsu Ƀơ̆ng Huă Pơ Sang Simôn Pô Pharisai Yom Pơphan

36Hơmâo sa čô Pharisai jak iâu Yêsu nao ƀơ̆ng huă pơ sang ñu. Tui anŭn, Yêsu nao pơ sang pô Pharisai anŭn laih anŭn dŏ be̱r ƀơi grê đih kiăng kơ ƀơ̆ng huă. 37Anai nê, hơmâo sa čô đah kơmơi rĭh răm amăng plei anŭn, tơdang ñu hơmư̆ Yêsu hlak dŏ ƀơ̆ng huă amăng sang pô Pharisai anŭn, ñu djă̱ ba sa ge̱t añŭ kô̱̆ ia ƀâo hiam. 38Gơ̆ dŏ dơ̆ng gah rŏng Yêsu jĕ ƀơi tơkai Ñu; gơ̆ hia laih anŭn ia mơta gơ̆ ngă mơsăh hĭ tơkai Yêsu, giŏng anŭn gơ̆ yua ƀŭk gơ̆ sut ƀơi tơkai Yêsu. Gơ̆ čum tơkai Yêsu laih anŭn trôč ia ƀâo hiam anŭn ƀơi tơkai Yêsu. 39Tơdang anŭn, pô Pharisai, jing pô jak iâu Yêsu rai ƀơ̆ng huă, ƀuh tơlơi anŭn, ñu pơmĭn amăng pran jua ñu pô tui anai, “Tơdah pô anai jing pô pơala, sĭt ñu či thâo krăn yơh pô đah kơmơi ruaih ñu anŭn jing sa čô đah kơmơi rĭh răm.”
40Tui anŭn, Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Ơ Simôn, kâo hơmâo tơlơi kiăng ruai hăng ih.” Ñu laĭ glaĭ, “Ơ nai, ruai bĕ!”
41Yêsu čơdơ̆ng ruai tui anai, “Sa čô pô hơnưh hơmâo dua čô đo̱m hơnưh. Pô anai đo̱m hơnưh 500 denari laih anŭn pô adih đo̱m 50 denari. 42Tơdang ƀing gơñu ƀu dưi kla glaĭ ôh, pô hơnưh pap brơi lŏm hĭ abih hơnưh dua gơñu đo̱m. Tui anŭn yơh, amăng dua čô đo̱m hơnưh anŭn, pô pă khăp kơ pô hơnưh lu hloh lĕ?”
43Simôn laĭ glaĭ, “Kâo pơmĭn pô đo̱m hơnưh lu anŭn yơh či khăp kơ pô hơnưh lu hloh.” Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu, “Ih hơmâo phat djơ̆ laih.” 44Giŏng anŭn, Ñu wir glaĭ gah đah kơmơi hăng laĭ kơ Simôn tui anai, “Bơ kơ đah kơmơi anai, Kâo mŭt amăng sang ih, ih ƀu pha brơi ia rao tơkai Kâo ôh tui hăng tơlơi phiăn, samơ̆ ñu hơmâo ngă mơsăh laih tơkai Kâo hăng ia mơta ñu laih anŭn yua ƀŭk ñu sut ƀơi tơkai Kâo. 45Ih kŏn čum ju̱m Kâo lơi, samơ̆ čơdơ̆ng mơ̆ng Kâo mŭt pơ sang ih, ñu ƀu pơdơi ôh čum tơkai Kâo. 46Ih ăt kŏn trôč lơi ia jâo ôliwơ ƀơi akŏ Kâo, samơ̆ ñu hơmâo trôč laih ia ƀâo hiam ƀơi tơkai Kâo. 47Hơnŭn yơh, Kâo laĭ kơ ih thâo, sĭt tơlơi soh ñu lu hơmâo pap brơi laih, yuakơ ñu khăp kơ Kâo lu; samơ̆ kơ hlơi pô tơlơi soh hơmâo pap brơi ƀiă, ñu anŭn ăt či khăp ƀiă mơ̆n.”
48Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ đah kơmơi anŭn, “Tơlơi soh ih Kâo pap brơi laih.”
49Tui anŭn, ƀing dŏ be̱r ƀơ̆ng huă hrŏm hăng Ñu čơdơ̆ng pơhiăp hăng tơdruă gơñu tui anai, “Hlơi pô anai jing tơl Ñu dưi pap brơi tơlơi soh arăng lĕ?”
50Laih anŭn Yêsu laĭ hăng pô đah kơmơi anŭn tui anai, “Ơi Adai hơmâo pơklaih ih laih yuakơ ih đaŏ kơ Kâo; nao rơnŭk rơnua bĕ.”