12

Ví dụ về người làm vườn nho

(Mat 21:33-46; Lu 20:9-19)

1 Đức Chúa Jêsus khởi phán thí dụ cùng họ rằng: Một người kia trồng vườn nho, rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và dựng một cái tháp; đoạn, cho mấy người làm nghề trồng nho thuê, mà lìa bổn xứ. 2 Tới mùa, chủ vườn sai một đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu lấy phần hoa lợi vườn nho nơi tay họ. 3 Nhưng họ bắt đầy tớ mà đánh, rồi đuổi về tay không. 4 Người lại sai một đầy tớ khác đến; nhưng họ đánh đầu nó và chưởi rủa nữa. 5 Người còn sai đứa khác đến, thì họ giết đi; lại sai nhiều đứa khác nữa, đứa thì bị họ đánh, đứa thì bị họ giết. 6 Chủ vườn còn đứa con trai một rất yêu dấu, bèn sai đi lần cuối cùng, mà nói rằng: Chúng nó sẽ kính vì con ta! 7 Nhưng bọn trồng nho đó bàn với nhau rằng: Thằng nầy là con kế tự; hè, ta hãy giết nó, thì phần gia tài nó sẽ về chúng ta. 8 Họ bắt con trai ấy giết đi, ném ra ngoài vườn nho. 9 Vậy thì chủ vườn nho sẽ làm thế nào? Người sẽ đến giết bọn trồng nho đó, rồi lấy vườn nho lại mà cho người khác. 10 Các ngươi há chưa đọc lời Kinh thánh nầy:
 Hòn đá bị thợ xây nhà bỏ ra,
 Đã trở nên đá góc nhà;
11 Ấy là công việc của Chúa,
 Và là việc rất lạ trước mắt chúng ta,
 hay sao?
12 Những người đó bèn tìm cách bắt Ngài, vì biết rõ rằng Ngài phán thí dụ ấy chỉ về mình; song sợ dân chúng, nên bỏ Ngài mà đi.

Đức Chúa Trời và Sê-sa

(Mat 22:15-22; Lu 20:20-26)

13 Kế đó, họ sai mấy người thuộc về phe Pha-ri-si và đảng Hê-rốt đến, để bắt lỗi Ngài trong lời nói. 14 Vậy, mấy người ấy đến, thưa Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là người thật, không sợ gì ai; vì thầy không xem bề ngoài người ta, nhưng dạy đạo Đức Chúa Trời theo mọi lẽ thật. Có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không? Chúng tôi phải nộp hay là không nộp? 15 Nhưng Ngài biết sự giả hình của họ, thì phán rằng: Các ngươi thử ta làm chi? Hãy đem cho ta xem một đồng đơ-ni-ê. 16 Họ đem cho Ngài một đồng, Ngài bèn phán rằng: Hình và hiệu nầy của ai? Họ trả lời rằng: Của Sê-sa. 17 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Vật chi của Sê-sa hãy trả lại cho Sê-sa, còn vật chi của Đức Chúa Trời hãy trả lại cho Đức Chúa Trời. Họ đều lấy làm lạ về Ngài.

Sự sống lại

(Mat 22:23-33; Lu 20:27-40)

18 Các người Sa-đu-sê, là những kẻ vẫn nói rằng không có sự sống lại, đến gần mà hỏi Ngài rằng: 19 Thưa thầy, Môi-se đã ban cho chúng tôi luật nầy: Nếu một người kia có anh em qua đời, để vợ lại, không con, thì người kia phải lấy vợ góa đó đặng nối dòng dõi cho anh em mình. 20 Vả, có bảy anh em. Người thứ nhứt cưới vợ, rồi chết, không có con. 21 Người thứ hai lấy vợ góa ấy, sau chết, cũng không có con; rồi đến người thứ ba cũng vậy. 22 Trong bảy người, chẳng ai để con lại. Sau hết, người đàn bà cũng chết. 23 Lúc sống lại, đàn bà đó là vợ ai trong bảy anh em? Vì hết thảy đều đã lấy người làm vợ. 24 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Há chẳng phải các ngươi lầm, vì không biết Kinh thánh, cũng không hiểu quyền phép Đức Chúa Trời sao? 25 Vì đến lúc người ta từ kẻ chết sống lại, thì chẳng cưới vợ, chẳng lấy chồng; nhưng các người sống lại đó ở như thiên sứ trên trời vậy. 26 Còn về những người chết được sống lại, thì trong sách Môi-se có chép lời Đức Chúa Trời phán cùng người trong bụi gai rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, các ngươi há chưa đọc đến sao? 27 Ngài chẳng phải là Đức Chúa Trời của kẻ chết, mà là của kẻ sống! Thật các ngươi lầm to.

Tóm tắt về luật pháp

(Mat 22:34-40; Lu 10:25-28)

28 Bấy giờ, có một thầy thông giáo nghe Chúa và người Sa-đu-sê biện luận với nhau, biết Đức Chúa Jêsus đã khéo đáp, bèn đến gần hỏi Ngài rằng: Trong các điều răn, điều nào là đầu hết? 29 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nầy là điều đầu nhứt: Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe, Chúa, Đức Chúa Trời chúng ta, là Chúa có một. 30 Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. 31 Nầy là điều thứ hai: Ngươi phải yêu kẻ lân cận như mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn hai điều đó. 32 Thầy thông giáo trả lời rằng: Thưa thầy, thầy nói phải, hợp lý lắm, thật Đức Chúa Trời là có một, ngoài Ngài chẳng có Chúa nào khác nữa; 33 thật phải kính mến Chúa hết lòng, hết trí, hết sức, và yêu kẻ lân cận như mình, ấy là hơn mọi của lễ thiêu cùng hết thảy các của lễ. 34 Đức Chúa Jêsus thấy người trả lời như người khôn, thì phán rằng: Ngươi chẳng cách xa nước Đức Chúa Trời đâu. Rồi không ai dám hỏi Ngài nữa.

Đấng Christ, con vua Đa-vít

(Mat 22:41-46; Lu 20:41-44)

35 Đức Chúa Jêsus đương dạy dỗ trong đền thờ, bèn cất tiếng phán những lời nầy: Sao các thầy thông giáo nói Đấng Christ là con Đa-vít? 36 Chính Đa-vít đã cảm Đức Thánh Linh mà nói rằng:
 Chúa phán cùng Chúa tôi:
 Hãy ngồi bên hữu ta,
 Cho đến chừng nào ta để kẻ thù nghịch ngươi làm bệ dưới chân ngươi.
37 Vì chính Đa-vít xưng Ngài bằng Chúa, thì lẽ nào Ngài là con vua ấy? Đoàn dân đông vui lòng mà nghe Ngài.

Lời trách các thầy thông giáo

(Mat 23:1-36; Lu 20:45-47)

38 Trong lúc dạy dỗ, Ngài lại phán rằng: Hãy giữ mình về các thầy thông giáo, là kẻ ưa mặc áo dài đi chơi, thích người ta chào mình giữa chợ. 39 muốn ngôi cao nhứt trong các nhà hội cùng trong các đám tiệc, 40 nuốt các nhà đàn bà góa, mà làm bộ đọc lời cầu nguyện dài. Họ sẽ bị phạt càng nặng hơn nữa.

Đàn bà góa dâng của

(Lu 21:1-4)

41 Đức Chúa Jêsus ngồi đối ngang cái rương đựng tiền dâng, coi dân chúng bỏ tiền vào thể nào. 42 Có lắm người giàu bỏ nhiều tiền; cũng có một mụ góa nghèo kia đến bỏ hai đồng tiền ăn một phần tư xu. 43 Ngài bèn kêu môn đồ mà phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, mụ góa nghèo nầy đã bỏ tiền vào rương nhiều hơn hết thảy những người đã bỏ vào. 44 Vì mọi kẻ khác lấy của dư mình bỏ vào, còn mụ nầy nghèo cực lắm, đã bỏ hết của mình có, là hết của có để nuôi mình.

12

Pơhơmutu Kơ Ƀing Wai Đang Boh Kơƀâo Sat Ƀai

(Mathiơ 21:33-46; Luk 20:9-19)

1Giŏng anŭn, Yêsu yua tơlơi pơhơmutu kiăng pơtô kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơmâo sa čô mơnuih pla đang boh kơƀâo prŏng. Ñu pơdơ̆ng bơnư̆ pơga jum dar, klơi sa boh amăng luh jing anih pioh djet boh kơƀâo laih anŭn pơdơ̆ng đĭ sa boh nưh kiăng kơ gak wai. Giŏng anŭn, ñu jao đang anŭn kơ ƀing arăng kiăng kơ răk wai laih anŭn pơpha boh čroh hăng ñu, samơ̆ ñu pô nao pơ anih lŏn pơkŏn sui ƀiă. 2Tơl truh bơyan pĕ boh, pô đang anŭn pơkiaŏ ding kơna ñu nao pơ ƀing răk wai đang anŭn kiăng kơ mă brơi boh čroh pơpha mơ̆ng đang anŭn. 3Samơ̆ ƀing gơñu mă pô ding kơna anŭn, taih hĭ gơ̆ laih anŭn brơi gơ̆ glaĭ tơngan đôč đač yơh. 4Giŏng anŭn, pô đang anŭn pơkiaŏ nao sa čô ding kơna pơkŏn dơ̆ng pơ ƀing gơñu. Ƀing gơñu taih hĭ gơ̆ ƀơi akŏ laih anŭn pơmlâo hĭ gơ̆. 5Pô đang anŭn pơkiaŏ nao sa čô ding kơna pơkŏn dơ̆ng laih anŭn ƀing gơñu pơdjai hĭ gơ̆. Pô đang anŭn pơkiaŏ nao ƀing ding kơna pơkŏn dơ̆ng. Đơđa amăng ƀing gơ̆, ƀing gơñu taih ama̱ng, đơđa ƀing pơkŏn, ƀing gơñu pơdjai hĭ.
6“Pô đang anŭn dŏ hơmâo sa čô dơ̆ng kiăng kơ pơkiaŏ nao, anŭn jing ană đah rơkơi ñu khăp biă mă. Hơnăl tuč, ñu pơkiaŏ nao gơ̆ yơh yuakơ ñu pơmĭn tui anai, ‘Ƀing gơñu či pơpŭ kơ ană kâo pô yơh.’
7“Samơ̆ ƀing răk wai đang anŭn pơlaĭ kơ tơdruă gơñu tui anai, ‘Anŭn yơh jing pô či tŭ mă kŏng ngăn ama ñu. Nă, brơi kơ ƀing ta pơdjai hĭ bĕ ñu laih anŭn kŏng ngăn anŭn či lŏm kơ ƀing ta yơh.’ 8Tui anŭn, ƀing gơñu mă gơ̆, glŏm pơ gah rơngiao đang laih anŭn pơdjai hĭ gơ̆.
9“Tui anŭn, hơget tơlơi pô đang boh kơƀâo anŭn či ngă lĕ? Ñu či rai pơdjai hĭ ƀing răk wai đang anŭn laih anŭn jao brơi đang boh kơƀâo anŭn kơ ƀing răk wai pơkŏn yơh. 10Sĭt ƀing gih ăt đŏk laih mơ̆n tơlơi anai amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam,
  “Boh pơtâo ƀing pơdơ̆ng sang hơngah lui ƀu tŭ yua,
   hơmâo jing hĭ laih boh pơtâo phŭn kơ abih bang.
  11Khua Yang yơh jing Pô hơmâo ngă laih tơlơi anŭn,
   laih anŭn jing hli̱ng hla̱ng biă mă kơ ƀing ta lăng.”
12Giŏng anŭn, ƀing gơñu kiăng mă Yêsu yơh yuakơ ƀing gơñu thâo krăn Ñu hơmâo pơruai laih tơlơi pơhơmutu anŭn kiăng kơčrâo kơ ƀing gơñu. Samơ̆ ƀing gơñu huĭ kơ ƀing ană plei. Tui anŭn, ƀing gơñu tơbiă đuaĭ hĭ yơh.

Tơlơi Tơña Duh Jia Kơ Pơtao Prŏng Kaisar

(Mathiơ 22:15-22; Luk 20:20-26)

13Tơdơi kơ anŭn, ƀing gơñu pơkiaŏ rai đơđa ƀing Pharisai hăng ƀing Hêrôd pơ Yêsu kiăng mă soh Yêsu amăng tơlơi pơhiăp. 14Ƀing gơñu nao pơ Yêsu hăng laĭ tui anai, “Ơ Nai, ƀing gơmơi thâo Ih jing Pô pơhiăp hăng pơtô djơ̆ tơpă. Ih ƀu pơkăh pơpha hăng hlơi pô ôh yuakơ Ih ƀu pơđi̱ng lăng ôh kơ mơnuih yom pơphan hăng mơnuih ƀu yom pơphan, samơ̆ Ih pơtô laĭ sĭt kơ hơdră jơlan Ơi Adai yơh. Djơ̆ tui hăng tơlơi phiăn ta mơ̆, ƀing ta duh jia kơ pơtao prŏng Kaisar? Ta khŏm brơi ƀôdah lui? 15Hiư̆m ngă, ƀing ta khŏm duh ƀôdah ƀu duh ôh?”
 Samơ̆ Yêsu thâo tơlơi pơƀlŏr gơñu. Ñu laĭ tui anai, “Yua hơget ƀing gih ngă mơneč sat ƀai kơ Kâo lĕ? Ba rai pơ Kâo sa prăk denarius laih anŭn brơi kơ Kâo lăng prăk anŭn bĕ.”
16Ƀing gơñu ba rai kơ Ñu sa kăk prăk laih anŭn Yêsu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀơi prăk anai hơmâo rup hăng anăn hlơi lĕ?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Pơtao prŏng Kaisar.”
17Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Tui anŭn, pơglaĭ bĕ kơ pơtao Kaisar hơget gơnam lŏm kơ pơtao Kaisar, laih anŭn pơglaĭ bĕ kơ Ơi Adai hơget gơnam lŏm kơ Ơi Adai.”
 Laih anŭn ƀing gơñu hli̱ng hla̱ng biă mă kơ tơlơi Yêsu laĭ glaĭ anŭn.

Tơlơi Tơña Kơ Tơlơi Hơdip Glaĭ Dơ̆ng

(Mathiơ 22:23-33; Luk 20:27-40)

18Giŏng anŭn, ƀing Saddukai, jing ƀing laĭ kơ tơlơi ƀu hơmâo tơlơi hơdip glaĭ ôh, rai pơ Yêsu laih anŭn tơña kơ Ñu tui anai, 19“Ơ Nai ăh, Môseh čih laih kơ ƀing ta kơ tơlơi tơdah sa čô mơnuih ayŏng ñu dŏ bơnai samơ̆ gơ̆ djai hĭ hlâo kơ hơmâo ană bă, ñu anŭn jing pô adơi hlai khŏm dŏ bơnai anŭn. Hơnŭn yơh, tơdang dua gơñu hơmâo ană bă laih, ƀing gơñu khŏm yap ană anŭn jing ană lŏm kơ ayŏng ñu rơngiă anŭn yơh. 20Hlâo adih, hơmâo tơjuh čô ayŏng adơi sa amĭ ama. Pô tal sa dŏ bơnai samơ̆ ñu djai hĭ hlâo kơ hơmâo ană bă. 21Pô tal dua dŏ bơnai kơmai anŭn, samơ̆ ñu ăt djai hĭ mơ̆n ƀu hơmâo ană bă ôh. Pô tal klâo ăt kar kaĭ mơ̆n. 22Sĭt yơh, ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng tơjuh čô anŭn hơmâo ană bă. Hơnăl tuč, pô đah kơmơi anŭn ăt djai hĭ mơ̆n. 23Amăng tơlơi hơdip glaĭ, pô đah kơmơi anŭn či jing bơnai hlơi lĕ? Ƀing gơmơi tơña tui anŭn yuakơ tơjuh čô ayŏng adơi anŭn le̱ng kơ pơdŏ hăng gơ̆ soh sel.”
24Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Tơlơi pơmĭn gih anŭn jing soh biă mă yơh, yuakơ ƀing gih ƀu thâo hluh ôh Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam ăt kŏn thâo krăn lơi tơlơi dưi mơyang Ơi Adai. 25Tơdang ƀing djai hơdip glaĭ, ƀing gơñu ƀu či pơdŏ rơkơi bơnai dơ̆ng tah. Ƀing gơñu či jing pơdơ̆ pơđơ̱r hăng ƀing ling jang hiam Ơi Adai amăng adai adih yơh, jing ƀing ƀu dŏ rơkơi bơnai ôh. 26Bơ kơ ƀing mơnuih hơdip glaĭ anŭn, sĭt ƀing gih hơmâo đŏk laih amăng hră Môseh čih, tơdang ñu nao lăng kơ pum kơyâo, hiư̆m Ơi Adai laĭ laih kơ ñu tui anai, ‘Kâo jing Ơi Adai Abraham, Ơi Adai Isa̱k laih anŭn Ơi Adai Yakôb.’ 27Ñu ƀu djơ̆ jing Ơi Adai kơ ƀing djai ôh samơ̆ kơ ƀing hơdip yơh. Ƀing gih soh biă mă yơh!”

Tơlơi Juăt Yom Hloh

(Mathiơ 22:34-40; Luk 10:25-28)

28Sa čô amăng ƀing nai pơtô tơlơi juăt rai hơmư̆ arăng pơrơklah hăng Yêsu. Tơdang ñu thâo krăn Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu thâo biă mă, ñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Amăng abih bang tơlơi juăt, tơlơi juăt pă jing yom pơphan hloh lĕ?”
29Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Anai jing tơlơi juăt yom pơphan hloh, ‘Hơmư̆ bĕ, Ơ ƀing Israel, Khua Yang jing Ơi Adai ta, hơjăn Khua Yang yơh jing Ơi Adai ta sĭt. 30Khăp bĕ kơ Khua Yang ih hăng abih pran jua ih, hăng abih jua bơngăt ih, hăng abih tơlơi pơmĭn ih laih anŭn hăng abih tơlơi kơtang ih.’ 31Tơlơi Juăt mrô dua jing, ‘Ih khŏm khăp bĕ kơ mơnuih re̱ng gah ih hrup hăng ih khăp kơ ih pô.’ Ƀu hơmâo tơlơi juăt pă ôh jing yom pơphan hloh kơ dua tơlơi juăt anŭn.”
32Laih anŭn pô nai pơtô anŭn laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Nai ăh, Ih pơhiăp hiam biă mă. Ih pơhiăp djơ̆ yơh tơdang Ih laĭ Ơi Adai jing sa laih anŭn rơngiao kơ Ñu ƀu hơmâo Ơi Adai pơkŏn ôh, samơ̆ kơnơ̆ng hơjăn Ñu đôč yơh. 33Tui anŭn, ƀing ta khăp kơ Ñu hăng abih pran jua ta, hăng abih tơlơi thâo hluh ta, hăng abih tơlơi kơtang ta laih anŭn ƀing ta khăp kơ mơnuih re̱ng gah ta kar hăng ta pô, anŭn jing yom pơphan hloh kơ abih bang khul gơnam pơyơr čuh hăng khul gơnam ngă yang pơkŏn yơh.”
34Tơdang Yêsu ƀuh nai pơtô anŭn laĭ glaĭ hăng tơlơi rơgơi, Ñu laĭ kơ gơ̆ tui anai dơ̆ng, “Ih ƀu dŏ ataih ôh mơ̆ng dêh čar Ơi Adai.” Laih anŭn čơdơ̆ng mơ̆ng anŭn ƀu hơmâo hlơi pô khĭn tơña kơ Ñu dơ̆ng tah.

Messiah Jing Yom Hloh Kơ Pơtao Dawid

(Mathiơ 22:41-46; Luk 20:41-44)

35Tơdang Yêsu hlak pơtô amăng anih wăl tơdron sang yang, Ñu tơña tui anai, “Hiư̆m pă ƀing nai pơtô tơlơi juăt laĭ, ‘Pô Messiah jing ană tơčô pơtao Dawid’ lĕ? 36Sĭt Dawid pô yua mơ̆ng Yang Bơngăt Hiam pơhaih tui anai:
  “ ‘Ơi Adai, jing Khua Yang, pơhiăp hăng Khua Yang kâo tui anai:
   dŏ be̱r bĕ gah hơnuă kâo,
   jing anih pơpŭ pơyom,
  tơl Kâo blah juă hĭ ƀing rŏh ayăt Ih tui anŭn ƀing gơñu či bon kơkuh ƀơi tơkai Ih yơh.’
37“Pơtao Dawid pô iâu Pô Messiah anŭn jing Khua Yang ñu. Hiư̆m pă Messiah kơnơ̆ng dưi jing ană tơčô pơtao Dawid đôč hă?”
 Ƀing mơnuih lu dŏ hơmư̆ kơ Ñu hăng tơlơi mơak mơai yơh.

Yêsu Pơhiăp Ƀuăh Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Tơlơi Đaŏ

(Mathiơ 23:1-36; Luk 20:45-47)

38Tơdang Yêsu pơtô pơhrăm, Ñu laĭ tui anai, “Răng bĕ kơ ƀing nai pơtô tơlơi juăt. Ƀing gơñu khăp rơbat hyu buh ao phyung glông laih anŭn khăp kơ arăng pơhiăp kơkuh kơ ƀing gơñu tŏng krah anih sĭ mơnia. 39Ƀing gơñu khăp dŏ ƀơi khul anih dŏ be̱r yom pơphan amăng sang jơnum laih anŭn khăp dŏ be̱r ƀơi khul anih dŏ pơpŭ pơyom amăng anih phet ƀơ̆ng huă. 40Ƀing gơñu kơtư̆ juă ƀing đah kơmơi kơmai kiăng mă hĭ sang kŏng ngăn ƀing gơ̆, samơ̆ kơđai glaĭ ƀing gơñu ăt jing ƀing ngă mă iâu laĭ sui sĭn mơ̆n kiăng kơ pơang. Ƀing mơnuih kar hăng anŭn či tŭ tơlơi pơkơhma̱l prŏng biă mă yơh.”

Đah Kơmơi Kơmai Ƀun Rin Pơyơr Prăk Kơ Ơi Adai

(Luk 21:1-4)

41Yêsu dŏ be̱r klă̱ anăp hăng hip prăk amăng Sang Yang, jing anih arăng pioh khul gơnam pơyơr, laih anŭn lăng ƀing mơnuih lu pioh mŭt prăk pơyơr gơñu amăng hip prăk anŭn. Hơmâo lu mơnuih pơdrŏng pioh mŭt prăk lu gơñu. 42Samơ̆ hơmâo sa čô đah kơmơi kơmai rai hăng pơyơr dua prăk kăk ƀiă biă mă amăng hip anŭn, anŭn jing kơnơ̆ng yom truh kơ sa prăk đôč yơh.
43Yêsu iâu rai ƀing ding kơna Ñu pơ Ñu laih anŭn laĭ tui anai, “Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, pô đah kơmơi kơmai ƀun rin anai hơmâo pơyơr laih amăng hip prăk lu hloh kơ abih bang ƀing pơkŏn. 44Kâo laĭ tui anŭn yuakơ abih bang ƀing gơñu pơyơr laih kơnơ̆ng mơ̆ng gơnam rơbeh gơñu đôč, samơ̆ pô đah kơmơi kơmai anai hơmâo pơyơr laih kơ Ơi Adai mơ̆ng abih bang gơnam gơ̆ hơmâo kiăng kơ hơdip yơh.”