9

A-bi-mê-léc giết anh em mình và lên ngôi vua tại Si-chem. – Sự chết của người

1 A-bi-mê-léc, con trai Giê-ru-ba-anh, sang qua Si-chem, đến cùng các cậu và cả nhà ông ngoại mình, mà nói rằng: 2 Xin các ông hãy hỏi hết thảy người Si-chem, mà nói rằng: Hoặc tất cả bảy mươi người con trai Giê-ru-ba-anh cai trị trên các ngươi, hoặc chỉ một người làm vua của các ngươi, điều nào là tốt hơn? Cũng hãy nhớ rằng ta đồng cốt nhục với các ngươi. 3 Các cậu người nói giùm người, đem các lời nầy thuật lại cho hết thảy dân Si-chem nghe, và lòng chúng nghiêng về A-bi-mê-léc, vì chúng nói rằng: Người là anh em ta. 4 Chúng bèn ban cho người bảy mươi miếng bạc của miếu Ba-anh-Bê-rít; A-bi-mê-léc lấy bạc đó mướn những kẻ bại hoại hoang đàng đi theo mình. 5 Đoạn, người đi đến nhà cha mình tại Óp-ra, và trên một hòn đá, giết các anh em mình, tức những con trai của Giê-ru-ba-anh, số là bảy mươi người. Chỉ một mình Giô-tham, con út của Giê-ru-ba-anh, còn sống, bởi vì chàng đã ẩn mình.
6 Bấy giờ, hết thảy người Si-chem nhóm hiệp với cả họ Mi-lô, đi đến cây dẻ bộp bia đá ở tại Si-chem, mà tôn A-bi-mê-léc làm vua.
7 Giô-tham hay đặng điều đó, bèn đi lên đứng trên chót núi Ga-ri-xim, cất tiếng la rằng: Hỡi người Si-chem, hãy nghe ta, và nguyện Đức Chúa Trời nghe các ngươi! 8 Các cây cối đều đi đặng xức dầu cho một vua cai trị chúng nó. Chúng nó nói cùng cây ô-li-ve rằng: Hãy cai trị chúng tôi. 9 Cây ô-li-ve đáp: Ta há sẽ bỏ dầu ta mà Đức Chúa Trời và loài người đều tôn vinh, đặng đi xao động trên các cây cối ư? 10 Các cây cối lại nói cùng cây vả rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi. 11 Nhưng cây vả đáp rằng: Ta há sẽ bỏ sự ngọt ngon và trái tươi tốt ta đặng đi xao động trên các cây cối ư? 12 Đoạn, các cây cối nói cùng cây nho rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi. 13 Nhưng cây nho đáp: Ta há sẽ bỏ rượu ngon ta, là thứ làm cho vui Đức Chúa Trời và người ta, đặng đi xao động trên các cây cối ư? 14 Bấy giờ, hết thảy cây cối nói cùng gai gốc rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi. 15 Gai gốc đáp cùng các cây cối rằng: Nếu bởi lòng chân thật mà các ngươi muốn xức dầu ta làm vua các ngươi, thì hãy đến núp dưới bóng ta; bằng không, nguyện lửa ra từ gai và thiêu nuốt cây bá hương Li-ban đi! 16 Bây giờ, có phải các ngươi cư xử chân thật và công bình mà tôn A-bi-mê-léc làm vua chăng? Các ngươi có hậu đãi Giê-ru-ba-anh và nhà người chăng? Có báo đáp điều người đã làm cho các ngươi chăng? 17 Vì cha ta có tranh chiến cho các ngươi, liều mình mà giải cứu các ngươi khỏi tay dân Ma-đi-an. 18 Nhưng ngày nay các ngươi lại dấy lên cùng nhà cha ta, đã giết trên một hòn đá các con trai người, số là bảy mươi người, và lấy A-bi-mê-léc, con trai của con đòi người, mà tôn lên làm vua của dân Si-chem, vì hắn là anh em các ngươi. 19 Vậy, ví bằng ngày nay các ngươi có lấy sự chân thật và chánh trực mà đãi Giê-ru-ba-anh và nhà người, thì A-bi-mê-léc khá vui mừng nơi các ngươi, và các ngươi hãy vui mừng nơi hắn! 20 Bằng chẳng, nguyện lửa ra từ A-bi-mê-léc thiêu nuốt những người Si-chem cùng họ Mi-lô; và nguyện lửa ra từ những người Si-chem cùng họ Mi-lô mà thiêu nuốt A-bi-mê-léc!
21 Đoạn, Giô-tham trốn, đi ẩn náu tại Bê-re, và ở đó, vì sợ A-bi-mê-léc, anh mình.
22 A-bi-mê-léc cai trị Y-sơ-ra-ên trong ba năm. 23 Đoạn, Đức Chúa Trời sai đến một ác thần sanh sự bất bình giữa A-bi-mê-léc và người Si-chem; người Si-chem bèn phản nghịch A-bi-mê-léc, 24 để báo thù tội sát nhân đã phạm cùng bảy mươi con trai Giê-ru-ba-anh, và khiến huyết họ đổ tại trên A-bi-mê-léc, là anh đã giết họ, cùng đổ trên người Si-chem đã giúp hắn giết anh em mình. 25 Người Si-chem sai mấy kẻ đi rình rập người trên chót núi; chúng nó cướp giựt những kẻ đi qua đường gần bên chúng nó. A-bi-mê-léc hay được điều đó.
26 Bấy giờ, Ga-anh, con trai Ê-bết, cùng anh em mình đến vào trong Si-chem; người Si-chem đều để lòng tin cậy nơi người. 27 Rồi chúng ra ngoài đồng, hái những vườn nho của mình, đạp trái nho, và dự tiệc yến. Đoạn, họ vào trong đền thờ của thần chúng, ăn và uống, rồi rủa sả A-bi-mê-léc. 28 Ga-anh, con trai Ê-bết, bèn nói rằng: A-bi-mê-léc là ai, Si-chem là chi mà chúng ta phục sự A-bi-mê-léc? Hắn há chẳng phải con trai Giê-ru-ba-anh sao? Còn Xê-bun, há chẳng phải là kẻ phụ tá hắn ư? Các ngươi khá phục sự những người Hê-mô, là cha của Si-chem; còn chúng ta sao lại phục sự hắn? 29 Ồ! Nếu ta có dân sự nầy dưới tay ta, ta sẽ đuổi A-bi-mê-léc đi! Đoạn, người nói cùng A-bi-mê-léc rằng: Hãy gia tăng quân lính ngươi mà ra trận!
30 Xê-bun, quan cai thành, nghe được các lời của Ga-anh, con trai Ê-bết, nói, thì cơn giận người phừng lên, 31 mật sai sứ đến A-bi-mê-léc, mà nói rằng: Nầy Ga-anh, con trai Ê-bết, và anh em nó đã đến Si-chem, xui giục thành dấy nghịch cùng ông. 32 Vậy, đêm nay ông và các người theo ông phải chỗi dậy, đi phục binh ngoài đồng. 33 Đến sáng mai khi mặt trời vừa mọc, ông phải dậy sớm, xông hãm thành. Khi Ga-anh và quân theo nó ra đánh ông, thì ông hãy tùy cơ mà làm. 34 Vậy, A-bi-mê-léc và cả đạo binh theo người đều chỗi dậy ban đêm, chia ra làm bốn đội, và mai phục gần Si-chem.
35 Ga-anh, con trai Ê-bết, kéo ra và đứng tại cửa thành; A-bi-mê-léc và cả đạo binh theo người bèn đi ra khỏi nơi phục. 36 Ga-anh thấy đạo binh ấy, nói cùng Xê-bun rằng: Ta thấy một đạo binh từ trên chót núi xuống. Xê-bun đáp: Ngươi thấy bóng núi mà tưởng là người ta đó chớ! 37 Nhưng Ga-anh lại tiếp rằng: Quả thật một cơ binh ở trên núi xuống, và một đội do đường cây dẻ bộp thuật sĩ mà đến. 38 Xê-bun bèn la lên rằng: Chính ngươi đã nói: A-bi-mê-léc là ai mà ta phục sự hắn! Vậy, những lời khoe khoang của ngươi đó đã ra sao? Đó há chẳng phải đạo binh mà ngươi khinh dể ư? Bây giờ, khá đi ra giao chiến cùng chúng nó!
39 Ga-anh bèn đứng đầu các người Si-chem, đi ra giao chiến cùng A-bi-mê-léc. 40 Ga-anh bị A-bi-mê-léc đuổi theo, chạy trốn trước mặt người, và nhiều người bị thương ngã chết dọc đường, cho đến cửa thành. 41 A-bi-mê-léc đi ở tại A-ru-ma. Còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em người đi, không cho ở tại Si-chem nữa.
42 Qua ngày sau, dân sự đi ra ngoài đồng, có người đem tin đó cho A-bi-mê-léc hay. 43 Người bèn bắt cơ binh mình chia ra làm ba đội, để mai phục ngoài đồng. Khi thấy dân sự ở thành kéo ra, người liền chỗi dậy và hãm đánh chúng nó. 44 Đoạn A-bi-mê-léc và những kẻ đi theo lướt đến trước dừng lại tại cửa thành; còn hai đội kia xông vào hết thảy người ở ngoài đồng, và đánh giết họ. 45 A-bi-mê-léc hãm đánh thành trọn ngày, bèn chiếm lấy và giết hết thảy người ở trong, rồi phá thành và rắc muối ở đó.
46 Nghe tin nầy, hết thảy dân sự ở tháp Si-chem đều rút về trong đồn của miếu thần Bê-rít. 47 Người ta đem tin cho A-bi-mê-léc hay rằng hết thảy dân sự tháp Si-chem đều hiệp lại tại trong đồn. 48 A-bi-mê-léc bèn đi lên núi Sanh-môn với cả đạo binh theo mình. Người cầm lấy nơi tay một cái rìu chặt một nhánh cây, đỡ nó lên và vác trên vai; rồi nói cùng quân theo mình rằng: Các ngươi có thấy điều ta làm chăng? Hãy mau mau làm như ta. 49 Vậy, mỗi người chặt một nhánh cây, rồi đi theo A-bi-mê-léc. Họ dựng sắp nhánh cây đó nơi đồn, châm lửa vào, và thiêu đồn cùng những người ở trong. Như vậy hết thảy những người ở tháp Si-chem, nam và nữ, đều chết, số ước một ngàn.
50 A-bi-mê-léc liền đi đánh Thê-bết, vây và chiếm lấy nó. 51 Giữa thành phố có một cái tháp vững bền, hết thảy dân sự của thành, nam và nữ, đều chạy vô núp tại đó, và đóng cửa lại, rồi lên trên đỉnh tháp. 52 A-bi-mê-léc tấn tới tháp, xông hãm nó, và đi lại gần cửa đặng phóng hỏa. 53 Nhưng một người nữ ném thớt cối trên đầu A-bi-mê-léc làm bể sọ người. 54 Người liền kêu gã trai trẻ cầm binh khí hầu mình, mà nói rằng: Hãy rút gươm ngươi ra giết ta đi, kẻo người ta nói: Một người đàn bà đã giết người! Vậy, gã trai trẻ bèn đâm người, thì người chết. 55 Khi người Y-sơ-ra-ên thấy A-bi-mê-léc đã chết, thì mỗi người đi về nhà mình. 56 Như vậy, Đức Chúa Trời báo ứng A-bi-mê-léc vì tội ác hắn đã phạm cùng cha mình mà giết bảy mươi người anh em mình. 57 Đức Chúa Trời cũng báo ứng dân Si-chem vì mọi điều ác mà chúng nó làm. Sự rủa sả của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh, ứng nghiệm trên chúng nó là như vậy.

9

Nau Y-Abimêlek Chiă Uănh

1Y-Abimêlek, kon buklâu Y-Jêrubaal, hăn rlet ma ƀon Sichem ma phung mpôl mê̆ păng: 2"Dăn phung kônh va ôp hom lĕ rngôch phung bunuyh ƀon Sichem, jêh ri lah: "Mâu lah lĕ rngôch pơh jê̆t nuyh kon buklâu Y-Jêrubaal chiă uănh phung khân may, mâu lah kanŏng du huê ƀư hađăch ma khân may, moh nau jêng ueh lơn? Ăn khân may kah gĭt đŏng ma gâp jêng nting mham ndrel ma khân may." 3Phung kônh va păng ngơi an ma păng, leo nau ngơi aơ nkoch tay ma lĕ rngôch phung ƀon lan ƀon Sichem tăng, jêh ri nuih n'hâm khân păng rle mpeh ma Y-Abimêlek, yorlah khân păng lah pô aơ: "Păng jêng oh nâu he." 4Khân păng ăn ma Y-Abimêlek pơh jê̆t rêl khân păng sŏk tă bơh ngih brah Baal-Bêrit; Y-Abimêlek sŏk prăk nây păng nkhôm phung buklâu dơm dam jêh ri blă blơ tĭng ndô̆ păng. 5Pônây, păng hăn tât ta ngih mbơ̆ păng ta ƀon Ôphra, jêh ri nkhĭt phung oh nâu păng phung kon buklâu Y-Jêrubaal, pơh jê̆t nuyh ta kalơ du mlâm lŭ. Ƀiălah Y-Jôtham kon mpô̆t hôm, yorlah păng lĕ du krap jêh.
6Lĕ rngôch bunuyh ƀon Sichem văch ndrel n'grŭp, jêh ri lĕ rngôch bunuyh ƀon Bet-Milô, jêh ri khân păng hăn njêng Y-Abimêlek hađăch dăch kêng tơm si meh gâng ƀon Sichem.
7Tơlah bu nkoch bri nau nây ma Y-Jôtham, păng hăn gŭ ta kalơ n'glơn yôk Gerasim; păng nter huy jêh ri lah ma khân păng pôaơ: "Hơi phung buklâu ƀon Sichem, iăt hom ma gâp, pô ri Brah Ndu dơi iăt khân may! 8Du nar lĕ rngôch tơm si hăn gay tŏ dak ƀâu kah ma du huê hađăch chiă uănh khân păng. Khân păng lah ma tơm si ôlivơ pôaơ: 'Ăn may jêng hađăch chiă uănh phung hên.' 9Ƀiălah tơm si ôlivơ lah ma khân păng: 'Gâp mra chalơi lĕ dak gâp, ma ndơ nây phung brah jêh ri bunuyh geh nau yơk, jêh ri gâp hăn gay chiă uănh tơm si?' 10Jêh ri lĕ rngôch tơm si lah ma tơm rvi: 'Văch hom, ăn may jêng hađăch chiă uănh hên 11Ƀiălah tơm rvi lah ma khân păng: 'Gâp mra chalơi lĕ nau njŭng jêh ri play gâp ueh gay hăn chiă uănh tơm si?' 12Jêh ri lĕ rngôch tơm si lah ma tơm play kriăk ƀâu: 'Văch hom, ăn may jêng hađăch chiă uănh hên.' 13Ƀiălah tơm play kriăk ƀâu lah ma khân păng: 'Gâp mra chalơi lĕ tơm play kriăk ƀâu gâp, ndơ nây ƀư maak ma phung brah jêh ri bunuyh, gay hăn jêh ri chiă uănh tơm si?' 14Pônây lĕ rngôch tơm si lah ma rlô lok: 'Văch hom, ăn may jêng hađăch chiă uănh hên.' 15Jêh ri rlô lok lah ma tơm si: 'Tơlah ma nuih n'hâm nanê̆ ngăn khân may tŏ dak ƀâu kah ăn gâp jêng hađăch chiă uănh khân may, pônây văch hom nde tâm dâng gui n'hâm gâp; lah mâu pô nây, ăn geh ŭnh luh bơh rlô lok jêh ri su tơm si sêdar n'gor Liban!'
16"Yor nây aƀaơ ri tơlah khân may ƀư ma nuih n'hâm nanê̆ ngăn jêh ri ma nau yơk dôl khân may njêng Y-Abimêlek hađăch jêh ri tơdah khân may ƀư ueh ma Y-Jêrubaal jêh ri ngih păng, jêh nây ƀư ma păng tĭng nâm di ma kan păng 17yorlah mbơ̆ gâp tâm lơh an jêh ma khân may, păng hŏ sân săk jăn gay ŭch tâm rklaih khân may tă bơh ti phung Madian; 18ƀiălah nar aơ khân may dâk tâm rdâng đah ngih mbơ̆ gâp, hŏ nkhĭt jêh pơh jê̆t nuyh kon buklâu păng ta kalơ du mlâm lŭ, jêh ri sŏk Y-Abimêlek kon buklâu n'hat na bu ur păng ŭch njêng ôbăl hađăch chiă uănh ƀon Sichem, yorlah ôbăl jêng băl khân may 19nar aơ tơlah khân may ƀư ma nuih n'hâm nanê̆ ngăn ma nau yơk ma Y-Jêrubaal jêh ri ngih păng, pôri maak hom yor Y-Abimêlek jêh ri ăn păng tâm ban đŏng maak yorlah khân may 20Ƀiălah tơlah mâu di ôh pônây, ăn ŭnh luh bơh phung bunuyh tâm ƀon Sichem jêh ri bơh ƀon Bet-Milô su lơi Y-Abimêlek!"
21Jêh nây Y-Jôtham nchuăt du hăn rlet ƀon Bêr jêh ri gŭ ta nây, yor nau klach ma nâu păng Y-Abimêlek.
22Y-Abimêlek chiă uănh phung Israel pe năm. 23Jêh ri Brah Ndu prơh hăn du huê brah mhĭk ƀư nau ƀlăch ƀlêr ta nklang Y-Abimêlek jêh ri ƀon Sichem; phung ƀon Sichem rlăng đah Y-Abimôlek, 24gay har plơng nau nkhĭt bunuyh hŏ ƀư jêh pơh jê̆t nuyh kon buklâu Y-Jêrubaal, jêh ri gay ăn mham khân păng tŏ ta kalơ Y-Abimêlek, jêng nâu păng hŏ nkhĭt khân păng, tŏ mham ndrel ta kalơ phung ƀon Sichem hŏ kơl păng tâm nkhĭt ndrăng oh nâu khân păng nơm. 25Phung buklâu ƀon Sichem băk mưn bunuyh hăn kâp ƀư ma păng ta kalơ yôk; jêh ri khân păng pit hoa lĕ rngôch ndơ phung brot rgăn êp khân păng rŏ trong nây. Jêh ri bu mbơh nau nây ma Y-Abimêlek.
26Nôk nây, Y-Gaal, kon buklâu Y-Êbet, hăn rlet ma ƀon Sichem ndrel băl păng; jêh ri phung buklâu ƀon Sichem nsing ma păng. 27Jêh nây khân păng hăn luh ta mir, pĕ play kriăk ƀâu tâm đang play, kĭn păt play kriăk ƀâu, jêh ri ƀư nau nhêt sa. Pônây, khân păng lăp tâm ngih brah khân păng, khân păng sa jêh ri nhêt, jêh nây rak rtăp ma Y-Abimêlek. 28Y-Gaal kon buklâu Y-Êbet, lah pôaơ: "Mbu, moh Y-Abimêlek jêng, jêh ri mbu jêng phung Sichem gay ma he pah kan ma păng? Păng mâu di hĕ kon buklâu Y-Jêrubaal? Jêh ri Y-Sêbul jêng groi păng? Pah kan hom ma phung bunuyh Y-Hamôr mbơ̆ Y-Sichem! Mâm ƀư he pah kan ma Y-Abimêlek? 29Gay ma phung ƀon lan aơ gŭ tâm dâng nau gâp chiă uănh, pôri gâp mra mprơh Y-Abimêlek. Gâp mra lah ma Y-Abimêlek, "Ntop đŏng ăn âk tahan may jêh ri văch hom."
30Tơlah Y-Sêbul, kôranh ma ƀon nây tăng nau Y-Gaal kon bu klâu Y-Êbet ngơi, păng hao ji nuih. 31Păng prơh bunuyh hăn ma Y-Abimêlek ma nau ndâp, jêh ri lah: Aơ, Y-Gaal kon buklâu Y-Êbet, jêh ri băl păng văch jêh ma ƀon Sichem, jêh ri khân păng nsônh phung ƀon lan tâm rdâng đah may. 32Yor nây aƀaơ ri dôl măng, ăn may jêh ri phung buklâu gŭ ndrel may gŭ kâp khân păng tâm mir. 33Pônây ôi taơ kêng luh nar, may kah rngăl ơm, jêh ri nchuăt ran rlet ma ƀon. Tơlah Y-Gaal, ndrel phung băl tĭng păng luh ŭch tâm rdâng đah may, may dơi ƀư ma khân păng tĭng nâm găl." 34Pônây Y-Abimêlek jêh ri lĕ rngôch bunuyh ndrel ma păng kah rngăl dôl măng, jêh ri kâp dâp lơh phung ƀon Sichem tâm pă puăn phung.
35Y-Gaal kon buklâu Y-Êbet luh hăn gŭ ta ntŭk lăp mpông pêr ƀon. Y-Abimêlek jêh ri lĕ rngôch bunuyh ndrel ma păng dâk bơh ntŭk kâp dâp. 36Tơlah Y-Gaal saơ phung bunuyh păng lah ma Y-Sêbul, "Ri hiơ, bunuyh trŭnh tă bơh kalơ yôk!" Y-Sêbul lah ma păng: "May saơ gui n'hâm yôk nâm bu bunuyh!" 37Ƀiălah Y-Gaal ngơi đŏng jêh ri lah: "Ri hiơ, bunuyh trŭnh tă bơh ta nklang mphir yôk, jêh ri geh du phung văch tât bơh ntŭk tơm si phung ƀŭk rƀên." 38Jêh ri Y-Sêbul lah ma păng pô aơ: "Trôm mbung may nơm lah: 'Mbu moh Y-Abimêlek gay ma hên pah kan ma păng?' Mâu di hĕ phung aơ jêng phung may tâm rmot? Hăn hom aƀaơ ri tâm lơh đah khân păng."
39"Y-Gaal hăn panăp phung bunuyh ƀon Sichem, jêh ri tâm lơh đah Y-Abimêlek 40Y-Abimêlek tĭng Y-Gaal, nchuăt du panăp păng, jêh ri geh âk bunuyh sôt rmanh chôt khĭt rŏ trong, kŏ tât ta ntŭk lăp mpông pêr ƀon. 41Y-Abimêlek hăn gŭ ta ƀon Aruma; jêh ri Y-Sêbul mprơh Y-Gaal ndrel ma phung băl păng. Pôri khân păng mâu hôm dơi gŭ ta ƀon Sichem đŏng ôh.
42Kah ôi taơ, phung ƀon lan luh ta mir. Bu mbơh ma Y-Abimêlek. 43Păng sŏk phung tahan păng jêh ri tâm pă khân ôbăl pe phung, gay gŭ kâp dâp ta mir, păng saơ phung ƀon lan tă luh bơh ƀon. Păng dâk lơh jêh ri nkhĭt khân păng. 44Pônây, Y-Abimêlek jêh ri phung tahan ndrel păng rduh rlet panăp tât lor gŭ ta ntŭk lăp mpông pêr ƀon, dôl bar phung tahan rduh ran lĕ rngôch phung gŭ tâm mir jêh ri nkhĭt lĕ rngôch khân păng. 45Y-Abimêlek tâm lơh đah ƀon nây lĕ du nar. Păng sŏk ƀon nây jêh ri nkhĭt lĕ rngôch bunuyh gŭ tâm ƀon nây; jêh nây ƀư rai lơi lĕ ƀon jêh ri srih boh tâm ƀon nây.
46Tăng nau nây, lĕ rngôch phung bunuyh gŭ tâm ngih tŭm ƀon Sichem, khân păng lăp rgum gŭ tâm pôih nâp ngih brah Êl-Bêrit. 47Bu mbơh ma Y-Abimêlek gĭt pô aơ lĕ rngôch phung ƀon lan gŭ tâm ngih tŭm ƀon Sichem lĕ rgŭm băl ndrel jêh. 48Y-Abimêlek hao yôk Salmôn, păng jêh ri lĕ rngôch phung ndrel ma păng. Y-Abimêlek djôt ta ti du mlâm sung, păng puăt du mlâm n'gĭng tơm si jêh ri tuy ta kalơ săng nglik păng. Păng lah ma phung bunuyh ndrel păng pô aơ: "Moh ndơ khân may saơ gâp ƀư? Ƀư hom gơnh oi kơt gâp." 49Pônây, ăp nơm puăt du mlâm n'gĭng tơm si tĭng ndô̆ Y-Abimêlek, jêh ri dơm ăn tâm pôih, jêh nây su pôih bunuyh gŭ mây ma ŭnh. Pônây yơh lĕ rngôch bunuyh gŭ tâm ngih tŭm Sichem khĭt da dê, geh tâm du rbăn nuyh buklâu jêh ri bu ur.
50Jêh ri Y-Abimêlek hăn rlet ma ƀon Thêbes. Păng ƀư pôih gay ŭch tâm lơh đah ƀon Thêbes jêh ri sŏk gro păng. 51Ƀiălah geh tâm ƀon nây du mlâm ngih tŭm dŭt nâp ngăn. Lĕ rngôch bunuyh tâm ƀon du gŭ tâm ngih tŭm nây, lĕ rngôch bu ur buklâu, jêh ri khân păng ntĭl mpông, jêh nây hao gŭ kalơ chor ngih tŭm. 52Y-Abimêlek hăn tât ta ngih tŭm, tâm lơh đah păng, jêh ri hăn êp kêng mpông gay su ma ŭnh. 53Ƀiălah du huê bu ur klŭp ôbăl ma mpăl jê̆ geh ta bôk Y-Abimêlek ƀư ma ôbăl chah nting bôk. 54Păng kuăl ma nau ndal du huê buklâu ndăm nơm djôt khêl păng, jêh ri lah ma ôbăl pôaơ: "Tok đao may nkhĭt lơi gây, klach bu lah ma gâp 'du huê bu ur nkhĭt păng.'" 55Buklâu ndăm nây ntâp păng jêh ri păng khĭt. Tơlah bunuyh Israel saơ Y-Abimêlek lĕ khĭt jêh, pôri ăp nơm sĭt rlet ngih păng nơm. 56Pônây Brah Ndu mplơ̆ plơng nau mhĭk ma Y-Abimêlek hŏ ƀư jêh ma ngih mbơ̆ păng yorlah păng nkhĭt pơh jê̆t nuyh oh nâu păng. 57Jêh ri tâm ban đŏng Brah Ndu har plơng ma phung bunuyh ƀon Sichem yor lĕ rngôch nau djơh khân păng ƀư. Nau Y-Jôtham, kon buklâu Y-Jêrubaal, hŏ rak rtăp tâm di ngăn tŭp ta bôk khân păng nâm bu pônây.