50

Sự suy sụp của Ba-by-lôn và sự giải cứu của Y-sơ-ra-ên

1 Nầy là lời Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Giê-rê-mi phán về Ba-by-lôn, về đất của người Canh-đê:
2 Hãy rao, hãy bảo cho các nước, và dựng cờ xí; hãy rao truyền đi, đừng có giấu! Hãy nói rằng: Ba-by-lôn bị bắt lấy; Bên đầy hổ thẹn; Mê-rô-đác bị kinh hãi; hình tượng nó mang xấu hổ, thần tượng nó bị phá đổ! 3 Vì một dân đến từ phương bắc nghịch cùng nó, làm cho đất nó ra hoang vu, không có dân ở nữa; người và súc vật đều trốn tránh, và đi mất.
4 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, trong kỳ đó, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa cùng nhau trở lại, vừa đi vừa khóc, tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. 5 Chúng nó hướng mặt về Si-ôn, hỏi thăm về nó mà rằng: Hãy đến, liên kết với Đức Giê-hô-va bởi một giao ước đời đời sẽ không quên!
6 Dân ta vốn là một bầy chiên lạc mất; những kẻ chăn làm cho lộn đường, để chúng nó lầm lạc trên các núi, đi từ núi qua gò, quên chỗ mình an nghỉ. 7 Phàm những kẻ gặp, đều vồ nuốt chúng nó; và những kẻ nghịch chúng nó đều nói rằng: Chúng ta không đáng tội, vì chúng nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, là nơi ở của sự công bình, tức là Đức Giê-hô-va, sự trông cậy của tổ phụ chúng nó. 8 Hãy trốn ra ngoài Ba-by-lôn, ra khỏi đất người Canh-đê, hãy đi như dê đực đi đầu bầy! 9 Vì nầy, ta sẽ khiến nhiều dân tộc dấy lên từ xứ phương bắc, và đến nghịch cùng Ba-by-lôn, các dân ấy sẽ dàn trận đánh Ba-by-lôn, và từ đó nó bị hãm lấy. Tên chúng nó bắn như tên của lính chiến giỏi, chẳng trở về không. 10 Canh-đê sẽ bị cướp lấy, phàm kẻ cướp lấy nó sẽ được no nê, Đức Giê-hô-va phán vậy.
11 Hỡi kẻ cướp sản nghiệp ta, vì các ngươi vui mừng hớn hở, vì các ngươi buông lung như bò cái tơ đạp lúa, reo hí như ngựa mập mạnh; 12 bởi vậy, mẹ các ngươi rất mang xấu hổ, kẻ đẻ các ngươi bị thẹn thuồng. Kìa, nó sẽ làm cuối cùng hàng các nước, một đồng vắng, một đất khô khan, một nơi sa mạc. 13 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, nó sẽ không có người ở nữa, chỉ thành ra nơi hoang vu cả; phàm những kẻ đi qua gần Ba-by-lôn sẽ lấy làm lạ, và xỉ báng về các tai nạn nó. 14 Hỡi các ngươi là kẻ hay giương cung! Hãy dàn trận nghịch cùng Ba-by-lôn chung quanh; hãy bắn nó, đừng tiếc tên: vì nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va. 15 Khá kêu la nghịch cùng nó khắp tư bề. Nó đã đầu hàng, lũy nó sập xuống, tường thành nó nghiêng đổ: Ấy là sự báo thù của Đức Giê-hô-va! Hãy trả thù nó: làm cho nó như nó đã làm. 16 Hãy diệt những kẻ gieo giống trong Ba-by-lôn, cùng kẻ cầm liềm trong mùa gặt; vì sợ gươm kẻ ức hiếp, ai nấy sẽ trở về dân mình, ai nấy sẽ trốn về đất mình.
17 Y-sơ-ra-ên là một con chiên tan lạc, bị sư tử đuổi theo. Trước hết vua A-si-ri đã vồ nuốt nó; nay sau hết Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã làm tan xương nó ra. 18 Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và đất nó, như đã phạt vua A-si-ri. 19 Đoạn ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về trong đồng cỏ nó. Nó sẽ ăn cỏ trên Cạt-mên và Ba-san, lòng nó sẽ được no nê trên các đồi Ép-ra-im và Ga-la-át. 20 Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, bấy giờ, người ta sẽ tìm sự gian ác của Y-sơ-ra-ên, mà không có nữa; tìm tội lỗi của Giu-đa, mà chẳng thấy nữa đâu; vì ta sẽ tha tội cho những kẻ trong vòng chúng nó mà ta đã chừa lại.
21 Đức Giê-hô-va phán: Hãy lên đánh đất Mê-ra-tha-im, và dân cư Phê-cốt; hãy giết và diệt hết theo sau nó, và làm y như mọi điều ta đã dặn ngươi! 22 Tiếng kêu về giặc giã vang động trong đất; tai vạ lớn lắm. 23 Cái búa của cả đất đã bị bẻ gãy là dường nào! Ba-by-lôn đã trở nên hoang vu giữa các nước là dường nào! 24 Hỡi Ba-by-lôn, ta đã gài bẫy, và ngươi đã mắc vào mà không biết! Ngươi đã bị tìm và bắt được, vì đã tranh cạnh cùng Đức Giê-hô-va. 25 Đức Giê-hô-va đã mở kho khí giới mình, lấy binh khí của sự thạnh nộ ra; vì Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, có việc phải làm ra trong đất người Canh-đê. 26 Hãy đến từ bờ cõi rất xa nghịch cùng nó; hãy mở kho tàng nó ra, chất lên như đống, hãy diệt hết cả, đừng để lại chút gì! 27 Hãy giết mọi bò đực nó, đem xuống hàng thịt! Khốn nạn cho chúng nó, vì ngày chúng nó đã đến, ấy là kỳ thăm phạt chúng nó! 28 Hãy nghe tiếng kêu của kẻ đi trốn, của những kẻ thoát khỏi đất Ba-by-lôn, đặng rao ra trong Si-ôn sự báo thù của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, sự báo thù về đền thờ Ngài.
29 Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung, mọi người giương cung đến đánh Ba-by-lôn; đóng trại chung quanh nó; đừng để cho ai thoát khỏi! Hãy theo công việc nó mà báo trả, làm cho nó trọn như nó đã làm; vì nó lên mình kiêu ngạo nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 30 Vậy nên, bọn trai trẻ nó sẽ ngã trên các đường phố, và trong ngày đó, những người đánh giặc của nó sẽ phải nín lặng, Đức Giê-hô-va phán vậy. 31 Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Hỡi dân kiêu ngạo, nầy, ta hờn giận ngươi: vì ngày ngươi đã đến, ấy là kỳ ta sẽ thăm phạt ngươi. 32 Kẻ kiêu ngạo sẽ xiêu tó, vấp ngã, không ai dựng lại. Ta sẽ đốt lửa nơi các thành nó, thiêu nuốt mọi sự chung quanh.
33 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa thảy cùng nhau chịu hà hiếp. Phàm những kẻ bắt chúng nó đi làm phu tù đều giữ chúng nó lại, chẳng khứng thả ra. 34 Đấng Cứu chuộc chúng nó là mạnh mẽ, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân. Ngài sẽ đối nại việc chúng nó chắc chắn, đặng cho cả đất được yên nghỉ, và làm bối rối dân cư Ba-by-lôn. 35 Đức Giê-hô-va phán: Gươm dao ở trên người Canh-đê, trên dân cư Ba-by-lôn, trên các quan trưởng và các người khôn ngoan nó. 36 Gươm dao ở trên những người khoe khoang, chúng nó sẽ nên người dại dột! Gươm dao ở trên những kẻ mạnh mẽ, chúng nó sẽ bị kinh khiếp! 37 Gươm dao ở trên những xe, ngựa, cùng mọi dân lộn giống giữa nó, chúng nó sẽ trở nên như đàn bà! Gươm dao ở trên những kho tàng nó đều bị cướp giựt! 38 Sự hạn hán ở trên các dòng nước nó đều bị cạn khô! Vì ấy là xứ những tượng chạm, chúng nó vì thần tượng mà điên cuồng. 39 Vậy nên, những thú rừng nơi sa mạc sẽ cùng chó rừng làm ổ tại đó, những chim đà cũng choán làm chỗ ở mình; Ba-by-lôn sẽ không hề có dân cư nữa, vả từ đời nầy đến đời kia người ta sẽ không ở đó. 40 Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ giống như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, khi Đức Chúa Trời hủy diệt các thành ấy; sẽ không có dân ở nữa, chẳng một con người nào đến trú ngụ tại đó.
41 Nầy, một dân đến từ phương bắc; một nước lớn và nhiều vua từ các phương đất rất xa bị xui giục. 42 Họ cầm cung và giáo, hung dữ chẳng có lòng thương xót. Tiếng họ giống như biển gầm; hỡi con gái Ba-by-lôn, họ đã cỡi ngựa mà đến, dàn trận để đánh ngươi. 43 Vua Ba-by-lôn đã nghe tin đó, thì tay người trở nên rã rời; sự buồn rầu bắt lấy người như cơn đau của người đàn bà đang đẻ.
44 Nầy, kẻ thù như sư tử lên từ các rừng rậm rạp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình, ta sẽ làm cho người Canh-đê trốn khỏi, và lập người mà ta đã chọn cai trị nó. Vì, ai giống như ta? Ai sẽ định kỳ cho ta? Ai là kẻ chăn đứng được trước mắt ta? 45 Vậy hãy nghe mưu Đức Giê-hô-va đã toan nghịch cùng Ba-by-lôn, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng đất người Canh-đê. Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi, làm cho nơi ở chúng nó trở nên hoang vu! --- 46 Nghe tiếng Ba-by-lôn bị bắt lấy, đất đều rúng động, và có tiếng kêu nghe ra giữa các nước.

50

Klei Hưn Êlâo Djŏ kơ Čar Ƀaƀilôn

1 Yêhôwa blŭ kơ khua pô hưn êlâo Y-Yêrêmi klei djŏ kơ ƀuôn Ƀaƀilôn, klei djŏ kơ čar Kaldê:
  2“Hưn bi êdah bĕ ti krah phung găp djuê mnuih,
   mđĭ čhiăm gru leh anăn hưn bĕ,
  đăm mdăp klei anăn ôh, leh anăn lač:
   ‘Arăng mă leh ƀuôn Ƀaƀilôn,
  arăng bi hêñ leh yang Bel,
   yang Mêrôdak bŏ hŏng klei huĭ.
  Arăng bi hêñ leh rup krah ñu,
   rup yang ñu dlưh rai leh.’
  3Kyuadah mâo sa găp djuê mơ̆ng dưr đĭ hriê ngă kơ ñu,
   brei čar ñu jing ênguôl,
  leh anăn amâo srăng mâo mnuih dôk tinăn ôh;
   wăt mnuih leh anăn hlô mnơ̆ng srăng đuĕ.”

  4“Hlăm hruê anăn leh anăn hlăm ênuk anăn,” Yêhôwa lač,
   “phung anak čô Israel leh anăn phung anak čô Yuđa srăng hriê mđrăm mbĭt,
   êbat êjai, hia êjai, leh anăn diñu čiăng duah Yêhôwa Aê Diê diñu.
  5Diñu srăng êmuh êlan nao kơ ƀuôn Siôn,
   ƀô̆ mta diñu wir phă ƀuôn Siôn,
  diñu srăng hriê leh anăn bi kuôl diñu pô hŏng Yêhôwa
   hŏng sa klei bi mguôp hlŏng lar
   diñu amâo srăng wơr bĭt ôh.

  6Phung ƀuôn sang kâo jing msĕ si biăp wơr êlan leh;
   phung mgăt diñu bi wơr êlan diñu,
  atăt diñu klah đuĕ phă phung čư̆;
   diñu hiu rưng ti čư̆ leh anăn kbuôn,
   diñu wơr bĭt leh war diñu pô.
  7Jih jang phung tuôm hŏng diñu koh ƀơ̆ng diñu,
   leh anăn phung roh diñu lač, ‘Hmei amâo jing soh ôh,
  kyuadah diñu ngă soh leh hŏng Yêhôwa, kdrăn rơ̆k diñu sĭt,
   Yêhôwa, pô phung aê diñu čang hmăng.’

  8 Đuĕ bĕ mơ̆ng ƀuôn Ƀaƀilôn,
   leh anăn kbiă bĕ mơ̆ng čar Kaldê,
   leh anăn jing msĕ si bê knô atăt êpul.
  9Kyuadah nĕ anei, kâo dôk bi mčhur sa phung găp djuê mnuih lu
   mơ̆ng čar dưr ngă kơ ƀuôn Ƀaƀilôn,
  diñu srăng dăp kahan ngă kơ ƀuôn Ƀaƀilôn;
   mơ̆ng anôk dưi arăng srăng mă ƀuôn anăn.
  Ƀrăm diñu jing msĕ si kahan knhâo,
   amâo wĭt kngan êhŏng ôh.
  10Arăng srăng plah mă phung Kaldê;
   jih jang phung plah mă phung Kaldê srăng trei bŏ,” Yêhôwa lač.
  11“Kyuadah diih hơ̆k leh anăn mơak,
   Ơ phung plah mă ngăn dưn kâo,
  kyuadah diih hiu hlăp msĕ si sa drei êđai êmô ana hlăm kdrăn rơ̆k mda,
   leh anăn heh msĕ si aseh knô hưñ kơ ana.
  12Sĭt nik amĭ diih srăng hêñ;
   arăng srăng bi hêñ pô kkiêng kơ diih.
  Nĕ anei, gơ̆ srăng jing pô hơăi mang hĭn kơ phung găp djuê mnuih mkăn,
   sa anôk kdrăn tač lăn thu leh anăn êhŏng.
  13Kyua klei Yêhôwa ngêñ amâo srăng lŏ mâo mnuih dôk tinăn ôh,
   ƀiădah gơ̆ srăng jing anôk ênguôl sĭt nik;
  grăp čô hlei pô găn giăm ƀuôn Ƀaƀilôn srăng kdjăt,
   leh anăn mƀhơi kyua jih klei êka gơ̆.
  14Dăp bĕ diih pô jŭm dar čiăng ngă kơ ƀuôn Ƀaƀilôn,
   Ơ jih jang phung djă hna;
  mnah bĕ ñu, đăm lui ƀrăm ăt dôk ôh;
   kyuadah ñu ngă soh leh hŏng Yêhôwa.
  15Ur driâo bĕ jŭm dar ñu,
   ñu mŭt diih leh; kđông kjăp ñu dlưh leh,
  mnư̆ ñu klưh leh.
   Kyuadah klei anei jing klei Yêhôwa rŭ ênua,
  rŭ ênua kơ ñu bĕ,
   ngă bĕ kơ ñu msĕ si ñu ngă leh kơ phung mkăn.
  16Bi rai hĕ pô rah mjeh mơ̆ng ƀuôn Ƀaƀilôn,
   wăt pô djă mniă êjai yan wiă;
  kyuadah đao gưm pô ktư̆ juă,
   brei grăp čô wĭt kơ ƀuôn sang ñu pô,
   leh anăn grăp čô đuĕ kơ čar ñu pô.

  17Israel jing biăp klah đuĕ leh,
   phung êmông gu tiŏ mă leh.
  Êlâo hĭn mtao Asiri hiêk ƀơ̆ng ñu,
   leh anăn ti knhal tuč Y-Nebukatnetsar mtao Ƀaƀilôn kđah klang ñu.”
18Kyuanăn snei Yêhôwa kơ phung kahan Aê Diê Israel lač:
   “Nĕ anei, kâo dôk bi truh klei bi kmhal kơ mtao Ƀaƀilôn leh anăn kơ čar ñu,
   msĕ si kâo bi kmhal leh mtao čar Asiri.
  19Kâo srăng lŏ atăt wĭt Israel kơ kdrăn rơ̆k ñu pô,
   leh anăn diñu srăng ƀơ̆ng rơ̆k ti čư̆ Karmel leh anăn hlăm čar Basan,
   leh anăn mngăt ñu srăng hrăp ti kbuôn čar Êphraim leh anăn čar Galaat.
  20Hlăm hruê anăn leh anăn hlăm ênuk anăn,” Yêhôwa lač,
   “arăng srăng duah klei wê hlăm phung Israel,
  ƀiădah amâo srăng ƀuh ôh;
   arăng srăng duah klei soh hlăm phung Yuđa,
  ƀiădah amâo srăng ƀuh ôh;
   kyuadah kâo srăng pap brei kơ phung kâo pioh ăt dôk.”

  21“Đĭ nao ngă bĕ kơ čar Mêrathaim,
   leh anăn ngă kơ phung dôk hlăm čar Pêkôt.
  Bi mdjiê leh anăn bi rai diñu jih,”

   “leh anăn ngă bĕ jih jang klei kâo mtă leh kơ ih.
  22Ênai klei bi blah arăng hmư̆ hlăm čar,
   leh anăn mâo klei bi rai prŏng!
  23Hƀơih, arăng bi joh leh anăn bi mčah leh kmŭt kơ jih lăn ala!
   Hƀơih, ƀuôn Ƀaƀilôn jing leh sa mnơ̆ng bi huĭ ti krah phung găp djuê mnuih!
  24Kâo ƀêč leh kđông kơ ih,
   leh anăn ih djŏ kđông leh, Ơ ƀuôn Ƀaƀilôn,
  êlâo kơ ih thâo klei anăn;
   arăng ƀuh leh anăn mă ih,
   kyuadah ih bi kdơ̆ng leh hŏng Yêhôwa.
  25Yêhôwa pŏk leh anôk pioh mnơ̆ng bi blah ñu,
   leh anăn bi kbiă leh mnơ̆ng ñu bi blah kyua klei ñu ngêñ,
  kyuadah Yêhôwa Aê Diê kơ phung kahan mâo sa bruă
   čiăng ngă hlăm čar phung Kaldê.
  26Hriê ngă bĕ kơ ñu mơ̆ng anôk kbưi hĭn,
   pŏk hĕ hjiê ñu;
  dăp hĕ ñu msĕ si kăm mdiê,
   leh anăn bi rai hĕ ñu jih nguêč,
   đăm lui sa kdrêč adôk kơ ñu ôh.
  27Koh bi mdjiê hĕ jih jang êmô knô ñu,
   brei digơ̆ trŭn nao kơ pô koh bi mdjiê.
  Knap mñai yơh kơ digơ̆, kyuadah hruê digơ̆ truh leh,
   jing ênuk klei bi kmhal kơ digơ̆.
  28Hmư̆ bĕ! Phung đuĕ leh anăn tlaih mơ̆ng čar Ƀaƀilôn
   hưn hlăm ƀuôn Siôn
  klei Yêhôwa Aê Diê drei rŭ ênua,
   klei rŭ ênua kơ sang yang ñu.

  29 Iêu bĕ phung mnah hna ngă kơ ƀuôn Ƀaƀilôn,
   jih jang phung thâo mnah hna.
  Dôk wang jŭm ñu bĕ,
   đăm brei sa čô tlaih ôh.
  Bi wĭt kơ ñu tui si bruă ñu ngă leh,
   ngă kơ ñu tui si jih jang klei ñu tuôm ngă leh;
  kyuadah ñu bi kdơ̆ng leh hŏng Yêhôwa,
   Pô Doh Jăk Israel.
  30Kyuanăn phung êkei hlăk ai ñu srăng êbuh hlăm êlan ƀuôn ñu,
   leh anăn jih jang phung kahan ñu srăng rai hlăm hruê anăn,”

  31“Nĕ anei, kâo dôk bi kdơ̆ng hŏng ih, Ơ pô mgao,”
   Yêhôwa Aê Diê kơ phung kahan lač;
  “kyuadah hruê ih truh leh,
   jing ênuk kâo srăng bi kmhal ih.
  32Pô mgao srăng têč hnêč leh anăn êbuh,
   amâo mâo pô lŏ bi kơrŭ ñu ôh,
  leh anăn kâo srăng kuč pui hlăm ƀuôn prŏng ñu,
   leh anăn pui srăng ƀơ̆ng jih jang mnơ̆ng jŭm dar ñu.”
33Snei Yêhôwa kơ phung kahan lač:
   “Arăng ktư̆ juă leh phung anak čô Israel,
  wăt phung anak čô Yuđa mbĭt hŏng digơ̆;
   jih jang phung mă ba digơ̆ jing mnă kơ̆ng digơ̆ kjăp,
   diñu hngah amâo brei digơ̆ đuĕ nao ôh.
  34Ƀiădah Pô Bi Tui digơ̆ jing ktang;
   anăn ñu jing Yêhôwa kơ phung kahan.
  Sĭt nik ñu srăng jing pô mgang klei digơ̆,
   čiăng kơ ñu dưi brei klei mdei kơ lăn čar digơ̆,
   ƀiădah amâo mâo klei mdei ôh kơ phung dôk hlăm ƀuôn Ƀaƀilôn.”

  35“Brei sa ƀĕ đao gưm ngă kơ phung Kaldê,” Yêhôwa lač,
   “wăt ngă kơ phung dôk hlăm ƀuôn Ƀaƀilôn,
   kơ phung khua leh anăn phung thâo mĭn diñu!
  36Brei mâo sa ƀĕ đao gưm ngă kơ phung khua pô hưn êlâo soh diñu,
   čiăng kơ diñu jing mluk!
  Brei mâo sa ƀĕ đao gưm ngă kơ phung kahan ktang diñu,
   čiăng kơ diñu rai!
  37Brei mâo sa ƀĕ đao gưm ngă kơ aseh leh anăn êdeh aseh diñu,
   leh anăn wăt kơ jih jang phung găp djuê bi lŭk lăk dôk ti krah diñu,
  čiăng kơ diñu jing msĕ si mniê!
   Brei mâo sa ƀĕ đao gưm ngă kơ jih jang ngăn drăp diñu,
   čiăng kơ arăng dưi plah mă ngăn drăp anăn!
  38Brei adiê không ti dlông hnoh êa diñu,
   čiăng kơ digơ̆ khuôt hĕ!
  Kyuadah ñu jing čar bŏ hŏng rup krah,
   leh anăn phung anăn khŏ kyua rup yang.
  39 Kyuanăn hlô dliê leh anăn asâo tan srăng dôk hlăm ƀuôn Ƀaƀilôn,
   leh anăn čĭm ôtrus srăng dôk hlăm ñu;
  amâo srăng lŏ mâo mnuih dôk hlăm ñu hlŏng lar,
   êjai jih jang ênuk.”
  40 “Msĕ si hlăk Aê Diê mdlưh ƀuôn Sôdôm leh anăn ƀuôn Gômôrơ
   leh anăn ƀuôn riêng gah diñu,” Yêhôwa lač,
  “msĕ snăn mơh amâo mâo ƀuôn sang srăng hdĭp tinăn ôh,
   kăn mâo sa čô mnuih srăng dôk hlăm ñu rei.

  41Nĕ anei, sa phung ƀuôn sang hriê mơ̆ng dưr;
   sa găp djuê mnuih ktang leh anăn mâo lu mtao
   dơ̆ng kgŭ mơ̆ng anôk knhal lăn ala.
  42Diñu djă hna leh anăn kju;
   diñu jing ƀai, leh anăn amâo thâo pap ôh.
  Ênai diñu jing msĕ si ênai êa ksĭ gruh
   êjai diñu đĭ aseh;
  diñu hriê dăp msĕ si phung mnuih kơ klei bi blah
   čiăng bi kdơ̆ng hŏng ih, Ơ anak mniê ƀuôn Ƀaƀilôn!
  43Mtao ƀuôn Ƀaƀilôn hmư̆ leh klei arăng hưn kơ diñu,
   leh anăn kngan ñu dlưh jing awăt;
  klei ênguôt djă ñu,
   mâo klei ruă msĕ si sa čô mniê dôk ruă kkiêng.
  44Nĕ anei, msĕ si sa drei êmông gu hriê mơ̆ng kmrơ̆ng kpal êa krông Yurdan
   čiăng nao kơ anôk lăn dap mdrŏng sah,
  bhiâo riâo rit kâo srăng brei digơ̆ êran đuĕ mơ̆ng ñu.
   Leh anăn kâo srăng mdưm khua kiă kriê digơ̆ hlei pô kâo čiăng.
  Kyuadah hlei pô jing msĕ si kâo? hlei pô dưi bi kdơ̆ng hŏng kâo?
   Hlei mgăt biăp dưi dôk dơ̆ng ti anăp kâo?”
  45Kyuanăn hmư̆ bĕ hdră Yêhôwa mkra leh čiăng ngă kơ ƀuôn Ƀaƀilôn,
   leh anăn klei ñu mkra leh čiăng ngă kơ čar phung Kaldê:
  Sĭt nik arăng srăng mă mđuĕ êđai biăp mơ̆ng war biăp;
   sĭt nik ñu srăng bi rai kdrăn rơ̆k jih kyua diñu.
  46Tơdah hmư̆ ênai arăng mă ƀuôn Ƀaƀilôn,
   lăn ala srăng ktư̆ yơ̆ng,
   leh anăn klei ñu ur arăng srăng hmư̆ ti krah phung găp djuê mnuih.