10

Chức vụ của Đức Chúa Jêsus tại Giu-đê và Giê-ru-sa-lem

(10:1 – 13:37)

Vấn đề ly dị

(Ma-thi-ơ 19:1-12; Lu-ca 16:18)

1Từ đó Đức Chúa Jêsus đi vào miền Giu-đê và miền bên kia sông Giô-đanh. Đoàn dân đông lại tụ họp quanh Ngài, và như thường lệ, Ngài dạy dỗ họ. 2Có mấy người Pha-ri-si đến hỏi để thử Ngài: “Đàn ông có được phép ly dị vợ không?” 3Ngài hỏi: “Môi-se đã truyền dạy các ngươi điều gì?” 4Họ thưa: “Môi-se cho phép người đàn ông viết giấy ly hôn rồi ly dị vợ.” 5Đức Chúa Jêsus phán: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi mà Môi-se mới viết ra luật nầy. 6Nhưng từ buổi sáng thế, ‘Đức Chúa Trời chỉ tạo dựng một nam và một nữ.’ 7‘Vì lý do đó mà người nam phải lìa cha mẹ mình và kết hợp với vợ, 8và hai người trở nên một thịt.’ Như thế, vợ chồng sẽ không còn là hai nữa, mà chỉ là một. 9Vậy, loài người không được phân rẽ những người mà Đức Chúa Trời đã phối hợp.”
10Khi ở trong nhà, các môn đồ lại hỏi Ngài về vấn đề nầy; 11Ngài phán: “Người nào ly dị vợ để cưới người khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ. 12Còn nếu người đàn bà ly dị chồng để kết hôn với người khác thì cũng phạm tội ngoại tình.”

Đức Chúa Jêsus ban phước cho con trẻ

(Ma-thi-ơ 19:13-15; Lu-ca 18:15-17)

13Người ta đem con trẻ đến với Đức Chúa Jêsus để được Ngài đặt tay trên chúng, nhưng các môn đồ trách họ. 14Thấy vậy, Ngài giận và bảo các môn đồ: “Hãy để con trẻ đến cùng Ta, đừng ngăn cấm chúng, vì vương quốc Đức Chúa Trời thuộc về những ai giống như các con trẻ ấy. 15Thật, Ta bảo các con, ai không tiếp nhận vương quốc Đức Chúa Trời như một đứa trẻ thì sẽ không vào đó được.” 16Rồi Ngài ẵm những đứa trẻ ấy, đặt tay trên chúng và ban phước cho.

Người thanh niên giàu có

(Ma-thi-ơ 19:16-30; Lu-ca 18:18-30)

17Khi Đức Chúa Jêsus vừa khởi hành, có một người chạy đến, quỳ trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” 18Đức Chúa Jêsus đáp: “Tại sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Không ai là nhân lành cả, ngoài một mình Đức Chúa Trời. 19Hẳn ngươi biết các điều răn: ‘Đừng giết người; đừng phạm tội ngoại tình; đừng trộm cắp; đừng làm chứng dối; đừng lừa đảo; hãy hiếu kính cha mẹ ngươi.’” 20Người ấy nói: “Thưa Thầy, tôi đã tuân giữ mọi điều đó từ thuở niên thiếu.” 21Đức Chúa Jêsus trìu mến nhìn anh và nói: “Ngươi còn thiếu một điều. Hãy đi, bán những gì mình có và phân phát cho người nghèo thì ngươi sẽ có kho báu ở trên trời; rồi hãy đến theo Ta.” 22Nghe vậy, anh sa sầm nét mặt, rồi buồn bã bỏ đi, vì anh ta có quá nhiều của cải.
23Đức Chúa Jêsus đưa mắt nhìn quanh rồi phán với các môn đồ: “Người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời thật khó biết bao!” 24Các môn đồ ngạc nhiên về những lời nầy. Nhưng Đức Chúa Jêsus lại phán: “Hỡi các con, những ai nương cậy vào sự giàu có để được vào vương quốc Đức Chúa Trời thật vô cùng khó khăn! 25Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời.” 26Các môn đồ vô cùng ngạc nhiên, nói với nhau: “Vậy thì ai có thể được cứu?” 27Đức Chúa Jêsus nhìn họ và phán: “Loài người không thể làm được việc nầy, nhưng với Đức Chúa Trời thì khác; vì Đức Chúa Trời làm được mọi sự.”
28Phi-e-rơ liền nói: “Thưa Thầy, chúng con đã từ bỏ tất cả mà theo Thầy.” 29Đức Chúa Jêsus đáp: “Thật, Ta bảo các con, không một ai vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, 30mà bây giờ, ngay trong đời nầy, lại không nhận gấp trăm lần hơn về nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con cái, đất ruộng, cùng với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau. 31Nhưng có nhiều người đầu sẽ trở nên cuối, và người cuối sẽ trở nên đầu.”

Đức Chúa Jêsus báo trước lần thứ ba về sự chết và sống lại của Ngài

(Ma-thi-ơ 20:17-19; Lu-ca 18:31-34)

32Đức Chúa Jêsus và các môn đồ đang trên đường lên thành Giê-ru-sa-lem, Ngài đi trước họ. Các môn đồ kinh ngạc, còn những người đi theo thì sợ hãi. Ngài lại đem mười hai sứ đồ riêng ra và nói cho họ những gì sẽ phải xảy đến cho mình. 33Ngài nói: “Nầy, chúng ta lên thành Giê-ru-sa-lem, Con Người sẽ bị nộp cho các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo. Họ sẽ kết án tử hình Người, rồi giao cho dân ngoại. 34Người ta sẽ chế nhạo Người, khạc nhổ trên Người, đánh đòn và giết chết Người; nhưng sau ba ngày, Người sẽ sống lại.”

Lời thỉnh cầu của Gia-cơ và Giăng

(Ma-thi-ơ 20:20-28)

35Hai con trai của Xê-bê-đê là Gia-cơ và Giăng đến gần Đức Chúa Jêsus và nói: “Thưa Thầy, chúng con mong Thầy thực hiện điều chúng con cầu xin.” 36Ngài hỏi: “Các con muốn Ta làm gì cho các con?” 37Họ thưa: “Khi Thầy được vinh hiển, xin cho hai chúng con một người được ngồi bên phải, một người bên trái của Thầy.” 38Nhưng Đức Chúa Jêsus nói: “Các con không biết điều mình xin. Các con có thể uống được chén Ta uống, và chịu được báp-têm Ta chịu không?” 39Họ thưa: “Dạ được!” Đức Chúa Jêsus phán: “Các con sẽ uống chén Ta uống, và sẽ chịu báp-têm Ta chịu. 40Nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái Ta thì Ta không cho được, vị trí ấy dành cho những người đã được định sẵn.”
41Nghe vậy, mười sứ đồ kia giận Gia-cơ và Giăng. 42Đức Chúa Jêsus gọi họ đến và nói: “Các con biết rằng những người được tôn làm nhà cầm quyền dân ngoại thì thống trị dân; các quan chức cao cấp thì dùng quyền lực mà cai trị. 43Nhưng giữa các con thì không phải vậy. Trái lại, ai muốn làm lớn trong các con thì phải làm đầy tớ, 44còn ai muốn đứng đầu trong các con thì phải làm nô lệ cho mọi người. 45Vì Con Người đã đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.”

Đức Chúa Jêsus chữa lành người mù ở Giê-ri-cô

(Ma-thi-ơ 20:29-34; Lu-ca 18:35-43)

46Đức Chúa Jêsus và các môn đồ đến Giê-ri-cô. Khi Ngài cùng các môn đồ và đoàn dân đông rời khỏi thành, có một người mù tên là Ba-ti-mê, con trai của Ti-mê, ngồi ăn xin bên đường. 47Nghe nói đây là Đức Chúa Jêsus, người Na-xa-rét, anh kêu lớn: “Lạy Đức Chúa Jêsus, Con vua Đa-vít, xin đoái thương con!” 48Nhiều người rầy anh, bảo phải im lặng, nhưng anh càng kêu lớn hơn: “Lạy Con vua Đa-vít, xin đoái thương con!” 49Đức Chúa Jêsus dừng lại và bảo: “Hãy gọi người ấy đến đây.” Họ gọi người mù và bảo: “Hãy vững lòng, đứng dậy, Ngài gọi anh đó.” 50Người mù vứt bỏ áo choàng, đứng phắt dậy và đến với Đức Chúa Jêsus. 51Đức Chúa Jêsus hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” Anh thưa: “Lạy Thầy, xin cho con được sáng mắt.” 52Ngài phán: “Hãy đi, đức tin con đã chữa lành con.” Lập tức người mù được sáng mắt lại và đi theo Ngài.

10

Yê-su Atỡng Tễ Cũai Táh Lacuoi

(Mathia 19:1-12; Luca 16:18)

1Vớt ki Yê-su loŏh tễ ntốq ki, pỡq chu cruang Yudê cớp cruang yáng tooh crỗng Yôr-dan. Bữn cũai clứng toâq pỡ án, cớp án atỡng alới machớng án dốq táq tễ nling sĩa. 2Bữn cũai tễ tỗp Pha-rasi toâq blớh chim Yê-su. Alới blớh án neq: “Puai phễp rit hái, têq cũai samiang táh lacuoi, ma tỡ bữn?”
3Yê-su blớh loah alới neq: “Ntrớu Môi-se patâp anhia?”
4Alới ta‑ỡi neq: “Môi-se patâp hếq, khân cũai aléq yoc ễ táh lacuoi, án cóq chĩc choâiq ratáh yỗn lacuoi án. Chơ têq án táh.”
5Ma Yê-su atỡng alới neq: “Cỗ tian anhia bữn mứt coang lứq, yuaq ngkíq Môi-se chĩc ŏ́c patâp ki yỗn anhia. 6Ma tễ dâu lứq, bo Yiang Sursĩ tễng nheq dũ ramứh, án tễng cũai samiang cớp cũai mansễm. 7Yuaq ngkíq cũai samiang cóq yoah tễ mpiq mpoaq, ma ỡt parnơi cớp lacuoi án. 8Chơ bar náq lacuoi cayac cỡt máh muoi noaq sâng. Alới tỡ bữn cỡt noâng bar náq. Ma alới cỡt máh manoaq sâng. 9Ngkíq, khân Yiang Sursĩ amóh yỗn alới cỡt lacuoi cayac, tỡ têq cũai aléq caryoah alới yỗn ratáh.”
10Toâq Yê-su cớp tỗp rien tễ án mut loah tâng dống, tỗp rien tễ án blớh loah Yê-su tễ ranáq ki. 11Yê-su ta‑ỡi alới neq: “Cũai aléq ma táh lacuoi, chơ ĩt lacuoi canŏ́h ễn, cũai ki la samoât án cooc lacuoi noau. 12Cớp khân lacuoi ma táh cayac, chơ ỡt cớp cayac canŏ́h ễn, cũai ki la samoât án cooc cayac noau tê.”

Yê-su Câu Yỗn Carnễn

(Mathia 19:13-15; Luca 18:15-17)

13Vớt ki noau dững máh carnễn toâq pỡ Yê-su ễq án satoaq atĩ tâng carnễn ki. Ma tỗp rien tễ Yê-su sưoq cũai dững carnễn ki. 14Toâq Yê-su hữm ngkíq, án nhôp tỗp rien tễ án, cớp án atỡng alới neq: “Anhia yỗn carnễn ki toâq pỡ cứq. Chỗi catáng alới, yuaq tâng tỗp Yiang Sursĩ sốt bữn ống cũai ca bữn mứt pahỡm samoât carnễn. 15Cứq atỡng anhia samoât lứq, cũai aléq ma tỡ bữn pruam yỗn Yiang Sursĩ táq sốt samoât máh carnễn pruam, cũai ki tỡ têq mut tâng tỗp Yiang Sursĩ sốt.”
16Chơ Yê-su ca‑ữ máh carnễn ki; án satoaq atĩ tâng alới, cớp câu ŏ́c bốn yỗn alới hỡ.

Cũai Samiang Sốc

(Mathia 19:16-30; Luca 18:18-30)

17Bo Yê-su ntôm pỡq tâng rana, bữn manoaq samiang lúh toâq pỡ án cớp sacốh racớl yáng moat án. Samiang ki blớh Yê-su neq: “Thâi ơi! Thâi la o lứq. Ntrớu cứq cóq táq, yỗn têq bữn tamoong mantái?”
18Yê-su blớh loah án neq: “Nŏ́q mới dŏq cứq o? Ống Yiang Sursĩ toâp la o. 19Mới dáng chơ ŏ́c Yiang Sursĩ patâp: Chỗi cachĩt cũai; chỗi cooc lacuoi tỡ la cayac noau; chỗi tutuoiq; chỗi táq ntỡng lauq; chỗi lôp; cớp yám noap mpiq mpoaq.”
20Samiang ki ta‑ỡi Yê-su neq: “Thâi ơi! Máh ramứh ki cứq khoiq táq tễ bo cứq sanyỡr.”
21Yê-su nhêng chu án cớp sâng ayooq lứq án. Chơ Yê-su atỡng loah án neq: “Mới noâng khlâiq muoi ramứh. Cóq mới pỡq chếq nheq máh mun mới bữn, chơ tampễq práq kia yỗn máh cũai cadĩt. Ngkíq mới bữn mun ngoaih tâng paloŏng. Chơ mới toâq puai cứq.”
22Tữ cũai ki sâng Yê-su pai ngkíq, án ngúc moat múh cớp loŏh tễ ki; án sâng ngua lứq, yuaq án la cũai sốc.
23Chơ Yê-su carlang nhêng mpễr án, cớp án atỡng tỗp rien tễ án neq: “Coat lứq yỗn máh cũai sốc bữn mut tâng tỗp Yiang Sursĩ sốt.”
24Tữ Yê-su pai ngkíq, tỗp rien tễ án sâng dớt lứq tâng mứt. Ma Yê-su atỡng alới neq: “Máh con cứq ơi! Cũai ca yoc ễ mut tâng tỗp Yiang Sursĩ sốt, ki coat lứq yỗn án. 25Charán lac‑da luaiq hŏ́ng srứm, khễ hỡn tễ cũai sốc ma mut tâng tỗp Yiang Sursĩ sốt.”
26Tỗp rien tễ Yê-su sâng dớt lứq, cớp alới blớh loah Yê-su neq: “Khân ngkíq, noau têq mut tâng tỗp Yiang Sursĩ sốt?”
27Yê-su nhêng chu alới cớp atỡng neq: “Máh cũai, tỡ têq táq bữm ranáq ki, ma Yiang Sursĩ têq táq nheq tữh ranáq.”
28Phi-er atỡng Yê-su neq: “Nâi! Hếq khoiq táh dũ ramứh hếq bữn dŏq puai thâi.”
29Yê-su atỡng alới neq: “Cứq atỡng anhia samoât lứq, khân bữn cũai aléq táh dống sũ, sễm ai sễm ỡi, mpiq mpoaq, con acái, tỡ la sarái cỗ tian án puai cứq cớp puai parnai o tễ Yiang Sursĩ, 30cũai ki lứq bữn loah tâng dỡi nâi muoi culám trỗ hỡn tễ máh ramứh án khoiq táh, ariang dống sũ, sễm ai sễm ỡi, mpiq, con, cớp sarái. Án cóq ramóh túh coat hỡ. Ma chumát án bữn tamoong mantái. 31Sa‑ữi náq cỡt toâr sanua, chumát alới cỡt cacớt ễn, cớp sa‑ữi náq cacớt sanua, chumát alới cỡt toâr ễn.”

Yê-su Atỡng Loah Tễ Án Chĩuq Cuchĩt

(Mathia 20:17-19; Luca 18:31-34)

32Yê-su cớp tỗp rien tễ án pỡq tâng rana chỗn chu vil Yaru-salem. Yê-su pỡq nhũang alới. Máh tỗp rien tễ Yê-su sâng dớt lứq. Cớp máh cũai ca puai ntun alới, cũai ki sâng croŏq. Yê-su dững muoi chít la bar náq loŏh tễ cũai ki cớp atỡng alới tễ máh ranáq cheq ễ toâq pỡ án. 33Án pai neq: “Anhia tamứng! Hái cóq chỗn pỡ vil Yaru-salem. Ỡt ngki noau ễ chiau Con Yiang Cỡt Cũai pỡ atĩ cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ cớp cũai yống rit. Alới ki anoat án cóq cuchĩt; chơ alới ễ chiau án pỡ cũai tỡ cỡn cũai I-sarel hỡ. 34Cũai ki ayê ra‑ac án, cuchóh tâng án, proaih án, cớp cachĩt án. Ma vớt pái tangái, án yuor tamoong loah.”

Yacỡ Cớp Yang Sễq Muoi Ramứh Tễ Yê-su

(Mathia 20:20-28)

35Vớt ki Yacỡ cớp Yang, la con samiang Sê-badê, toâq pỡ Yê-su cớp sễq tễ án neq: “Thâi ơi! Hếq ễq thâi táq máh ŏ́c hếq sễq tễ thâi.”
36Yê-su blớh alới neq: “Ŏ́c ntrớu anhia yoc cứq táq yỗn anhia?”
37Alới ta‑ỡi án: “Yỗn hếq tacu manoaq coah atoam, manoaq coah avêr thâi bo thâi cỡt sốt cớp bữn chớc ang‑ữr.”
38Yê-su ta‑ỡi alới neq: “Anhia tỡ dáng dếh ŏ́c anhia sễq. Rơi tỡ anhia nguaiq muoi cachoc cớp cứq? Cớp rơi tỡ anhia roap batễm parnơi cớp cứq?”
39Alới ta‑ỡi án: “Hếq rơi.”
 Ma Yê-su atỡng loah alới neq: “Nỡ‑ra anhia cóq nguaiq muoi cachoc cớp cứq, cớp anhia cóq roap muoi batễm cớp cứq tê.
40Ma cứq tỡ têq yỗn anhia tacu coah atoam cớp coah avêr cứq. Ŏ́c ki ống Yiang Sursĩ sâng têq rưoh.”
41Tữ alới muoi chít náq canŏ́h tâng tỗp rien tễ Yê-su sâng ranáq ki, alới ũan lứq chóq Yacỡ cớp Yang. 42Chơ Yê-su arô nheq tỗp ki toâq pỡ án. Cớp án atỡng alới neq: “Anhia khoiq dáng chơ cũai sốt tâng dỡi nâi yoc máh cũai proai cỡt sũl alới, cớp alới padâm cũai proai túh coat lứq. 43Ma anhia chỗi táq samoât ngkíq. Cũai aléq yoc ễ cỡt toâr tâng tỗp anhia, cóq án cỡt ayững atĩ anhia. 44Cớp cũai aléq yoc ễ cỡt toâr clữi nheq tễ canŏ́h tâng tỗp anhia, cóq án cỡt sũl nheq tữh cũai. 45Machớng ki tê, Con Yiang Cỡt Cũai khoiq toâq pỡ nâi tỡ ễq noau hâu án, ma án yoc ễ hâu cũai canŏ́h. Cớp án ralêq rangứh án dŏq cuchĩt tang yỗn nheq tữh cũai.”

Cũai Sũt Bữn Ramóh Yê-su

(Mathia 20:29-34; Luca 18:35-43)

46Vớt ki Yê-su cớp tỗp rien tễ án toâq pỡ vil Yê-ri-cô. Tữ alới loŏh tễ vil ki parnơi cớp clứng cũai canŏ́h, alới ramóh manoaq cũai sũt ỡt susễq kễng rana. Ramứh án la Bati-mê con samiang Ti-mê. 47Tữ án sâng noau pai Yê-su tễ vil Na-sarễt pỡq pha, chơ án sabau casang lứq neq: “Ơ Yê-su tễ tŏ́ng toiq puo Davĩt ơi! Sễq Ncháu sarũiq táq cứq nứng!”
48Bữn sa‑ữi náq cũai sưoq án chỗi tabỗq, ma án sabau casang lứq ễn: “Ơ anhia tễ tŏ́ng toiq puo Davĩt ơi! Sễq anhia sarũiq táq cứq nứng!”
49Yê-su tangứt, chơ án ớn neq: “Arô cũai sũt ki toâq pỡ nâi.”
 Chơ alới arô cũai sũt ki, cớp alới atỡng án neq: “Chỗi croŏq ntrớu. Mới yuor tayứng. Yê-su arô mới.”
50Ngkíq cũai ki carieiq táh au tuar án. Yóiq án yuor cớp toâq pỡ Yê-su. 51Yê-su blớh án neq: “Ntrớu mới yoc cứq táq yỗn mới?”
 Cũai sũt ki ta‑ỡi: “Thâi ơi! Sễq yỗn moat cứq cỡt blang!”
52Yê-su atỡng án neq: “Pỡq! Cỗ mới sa‑âm, moat mới cỡt blang.”
 Bo ki toâp moat án cỡt blang, chơ án puai Yê-su tê.