2

Lời trối của Đa-vít. – Người qua đời. – Sa-lô-môn khởi trị vì

1 Khi ngày của Đa-vít hầu trọn, người truyền lịnh cho Sa-lô-môn, con trai mình, mà rằng: 2 Ta hầu đi con đường chung của cả thế gian, khá mạnh dạn và nên người trượng phu! 3 Hãy giữ điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn con giữ, để đi trong đường lối Ngài, gìn giữ những luật pháp, điều răn, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, y như đã chép trong luật pháp của Môi-se, hầu cho con làm điều chi hay là đi nơi nào cũng đều được thành công, 4 và Đức Giê-hô-va sẽ làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán về ta, rằng: Nhược bằng các con trai ngươi cẩn thận về đường lối mình, hết lòng, hết ý theo lẽ thật mà đi ở trước mặt ta, thì ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên.
5 Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân. 6 Con hãy cứ sự khôn ngoan con mà cư xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm phủ cách bình yên.
7 Con hãy ở với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cách nhân từ cho họ ăn đồng bàn cùng con; vì chính chúng nó đã đãi cha như vậy, mà đến đón rước cha, lúc cha chạy trốn trước mặt Áp-sa-lôm, anh con. 8 Nầy còn kẻ ở với con, là Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim, là kẻ lấy những lời độc ác mà nguyền rủa cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im; nhưng nó xuống đón cha tại Giô-đanh, thì cha đã nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề với nó rằng: Ta sẽ chẳng giết ngươi bằng gươm. 9 Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn ngoan, biết thế nào phải xử nó: Con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm phủ.
10 Đa-vít an giấc với các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11 Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm: Người trị vì bảy năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12 Đoạn, Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và nước người được lập rất vững bền.
13 A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đến cùng Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà nói: Ngươi đến có ý bình an chớ? Người thưa rằng: Phải, có ý bình an. 14 Người lại rằng: Tôi có một lời nói cùng bà. Bà đáp: Hãy nói. 15 Người tiếp: Bà biết rằng nước vốn thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong thấy tôi trị vì; nhưng ngôi nước đã trở nên của em tôi, vì do nơi Đức Giê-hô-va mà thuộc về người. 16 Vậy bây giờ, tôi có một sự xin với bà, chớ từ chối. Bà đáp: Hãy nói. 17 Người nói: Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn (vì người chẳng chối gì với bà), và cầu người cho tôi lấy A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ. 18 Bát-Sê-ba đáp: Được, ta sẽ nói với vua giùm cho ngươi.
19 Bát-Sê-ba đi đến vua Sa-lô-môn, để nói với người giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà; đoạn, người ngồi trên ngai mình, và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình; bà bèn ngồi bên tay hữu vua. 20 Bà nói với vua rằng: Mẹ có một việc nhỏ xin con, con chớ từ chối. Vua đáp: Mẹ ôi! Xin hãy nói; vì tôi sẽ chẳng từ chối với mẹ đâu. 21 Bà tiếp: Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, là anh con. 22 Nhưng vua Sa-lô-môn thưa cùng mẹ mình rằng: Cớ sao mẹ xin A-bi-sác, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Cũng hãy xin nước cho người luôn, vì người là anh cả tôi; hãy xin cho người, cho thầy tế lễ A-bia-tha, và cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia.
23 Vua Sa-lô-môn bèn chỉ Đức Giê-hô-va mà thề rằng: A-đô-ni-gia có nói lời đó nghịch với mạng sống mình; bằng chẳng, nguyện Đức Chúa Trời xử tôi cách nặng nề! 24 Bây giờ, tôi chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi vững vàng, và khiến tôi ngồi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, cùng lập một nhà cho tôi y như lời Ngài đã hứa, mà thề rằng: A-đô-ni-gia sẽ bị xử tử chính ngày hôm nay. 25 Vua Sa-lô-môn bèn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, xông đánh A-đô-ni-gia, thì người chết.
26 Đoạn, vua nói với thầy tế lễ A-bia-tha rằng: Hãy lui về A-na-tốt, trong đất ngươi, vì ngươi đáng chết. Song ngày nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng hòm giao ước của Chúa Giê-hô-va, trước mặt Đa-vít, là cha ta, và bởi vì ngươi đã bị hoạn nạn trong các sự hoạn nạn của cha ta. 27 Như vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha ra đi không cho làm thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va nữa, hầu cho lời của Đức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li, tại Si-lô, được ứng nghiệm.
28 Tin nầy thấu đến Giô-áp. (Vả Giô-áp đã theo phe A-đô-ni-gia, dầu không có theo phe của Áp-sa-lôm.) Người liền trốn đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, và nắm sừng của bàn thờ. 29 Người ta đến tâu với vua Sa-lô-môn rằng: Giô-áp đã trốn đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, và kìa người đứng bên cạnh bàn thờ. Sa-lô-môn bèn sai Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, mà dặn rằng: Hãy đi đánh giết hắn đi. 30 Bê-na-gia đi đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, nói cùng Giô-áp rằng: Vua có nói như vầy: Hãy ra khỏi đó. Giô-áp đáp: Không; ta muốn chết tại đây. Bê-na-gia đi thuật lại cho vua, và tâu rằng: Giô-áp đã nói và đáp lại như vậy. 31 Vua nói rằng: Hãy làm y như hắn nói. Hãy giết hắn và chôn đi. Như vậy, ngươi sẽ cất khỏi ta và khỏi nhà cha ta huyết mà Giô-áp đã đổ ra vô cớ. 32 Đức Giê-hô-va sẽ khiến huyết hắn đổ lại trên đầu hắn, vì hắn đã xông vào hai người công bình hơn, tốt hơn hắn, và giết họ bằng gươm, mà Đa-vít, cha ta, không hay đến chi cả: ấy là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, quan tướng của đạo binh Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, quan tướng của đạo binh Giu-đa. 33 Huyết hai người ấy sẽ đổ lại trên đầu Giô-áp và trên đầu của dòng dõi nó cho đến đời đời; còn phần Đa-vít và dòng dõi người, nhà và ngôi nước người sẽ nhờ Đức Giê-hô-va mà được bình yên mãi mãi. 34 Vậy, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, trở lên xông vào Giô-áp và giết người. Người được chôn ở nhà người, tại nơi đồng vắng. 35 Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm quan tổng binh thay cho Giô-áp, và lập Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha.
36 Đoạn, vua sai đòi Si-mê-i, và nói với người rằng: Hãy cất cho ngươi một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó; chớ ra đặng đi đầu nầy đầu kia. 37 Vì khá biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đó, và đi qua khe Xết-rôn, thì chắc ngươi sẽ chết: Huyết ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi. 38 Si-mê-i thưa với vua rằng: Lời ấy phải lắm, vua chúa tôi phán dặn điều gì, kẻ tôi tớ vua sẽ làm điều đó. Vậy, Si-mê-i ở lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem.
39 Cuối ba năm, xảy có hai kẻ tôi tớ của Si-mê-i trốn đến nhà A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta đến thuật điều đó cho Si-mê-i mà rằng: Kìa, hai kẻ tôi tớ ông ở tại Gát. 40 Si-mê-i chỗi dậy, thắng lừa mình, đi đến Gát, nơi nhà A-kích, đặng tìm hai kẻ tôi tớ mình. Gặp đoạn, bèn dẫn chúng nó về. 41 Người ta thuật cho Sa-lô-môn rằng Si-mê-i ở Giê-ru-sa-lem đã đi đến Gát, rồi trở về. 42 Vua sai đòi Si-mê-i mà phán rằng: Ta há chẳng có bắt ngươi chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và bảo ngươi trước rằng: Khá biết rằng ngày nào ngươi ra, và đi đầu nầy đầu kia, thì ngươi chắc sẽ chết, sao? Và ngươi có thưa cùng ta rằng: Lời tôi đã nghe, thậm phải. 43 Vậy, cớ sao ngươi không giữ lời chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và mạng lịnh ta đã truyền cho ngươi? 44 Vua lại nói với Si-mê-i rằng: Ngươi biết mọi sự ác ngươi đã làm cho Đa-vít, là cha ta, mà lòng ngươi vẫn còn nhớ lắm. Vậy nên Đức Giê-hô-va sẽ khiến sự ác của ngươi đổ lại trên đầu ngươi. 45 Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được phước, và ngôi của Đa-vít sẽ được lập vững bền trước mặt Đức Giê-hô-va đến đời đời. 46 Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa; người bèn đi ra đánh giết Si-mê-i. Như vậy, ngôi nước được vững bền trong tay Sa-lô-môn.

2

Nau Y-David Ntĭnh Ma Y-Salômôn

1Tơlah nar Y-David lôch jêh, păng khĭt dăch jêh, păng ntĭnh ma Y-Salômôn kon buklâu păng, lah: 2"Gâp lĕ dăch dâk hăn trong lĕ rngôch bu nuyh. Ăn may jêng katang jêh ri mpơl may nơm jêng du huê bunuyh kôranh! 3Djôt prăp hom nau Yêhôva Brah Ndu may ntăm, chuat tâm trong păng, jêh ri djôt prăp nau vay dôih păng, nau păng ntrŭnh, nau păng phat dôih, jêh ri nau păng mbơh, tĭng nâm chih jêh tâm nau vay Y-Môis, gay ăn may dơi chăt hao tâm lĕ nau may ƀư jêh ri ta ntŭk may hăn; 4gay ma Yêhôva dơi ăn n'hêl nanê̆ nau păng ngơi jêh di ma gâp, lah: "Tơlah phung kon buklâu may njrăng ma trong khân păng gay hăn panăp gâp tâm nau răp jăp ma lĕ nuih n'hâm, lĕ huêng khân păng, pôri may mâu mra pưt ôh du huê buklâu thoi ntŭk may ta sưng hađăch phung Israel." 5May hŏ gĭt đŏng ma nau Y-Jôap, kon buklâu Y-Sêruia ƀư jêh ma gâp, nau păng hŏ ƀư đah bar hê kôranh phung Israel, Y-Apner kon buklâu Y-Ner, jêh ri Y-Amasa, kon buklâu Y-Jêther. Păng hŏ nkhĭt bar hê nây, ƀư pling mham khân ôbăl dôl đăp mpăn nâm bu dôl geh nau tâm lơh. Păng hŏ ƀư pling mham bu nôk tâm lơh krêp ta rse bŭt păng vân, jêh ri ta ntâu jot păng ta jâng. 6Pôri may ƀư tĭng nâm nau gĭt mĭn may tâm nau kan aơ, jêh ri lơi ta ăn bôk mbra (ndra) păng đăp mpăn hăn jŭr tâm Ƀon Phung Khĭt.
7Ăn may gŭ ngao hom ma nau ueh đah phung kon buklâu Y-Barsilai, bunuyh Galaat; ăn hom khân păng sông nsum du sưng n'hanh may. Yorlah khân păng hŏ ƀư nau ueh ma gâp, dôl nôk gâp nchuăt du bơh Y-Apsalôm, nâu may.
8May tâm ban đŏng geh Y-Simei, kon bu klâu Y-Gêra, phung Benjamin, ƀon Bahurim. Păng hŏ thăm gâp ma nau rak rtăp tâm nar gâp hăn rlet ma ƀon Mahanaim, ƀiălah tơlah păng trŭnh văch tâm mâp đah gâp ta dak krong Yurdan, gâp geh ma amoh Yêhôva ŭch ton sơm ma păng pô aơ: "Gâp mâu mra nkhĭt ôh may ma đao!
9Ƀiălah may lơi ta uănh ôh păng mâu geh nau tih, yorlah may jêng du huê gĭt mĭn jêh ri blau mâm jêng nau mra ƀư ma păng. May ƀư hom ma păng jêh ri ăn păng leo bôk mbra krêp mham trŭnh tâm Ƀon Phung Khĭt."

Nau Y-David Khĭt

10Jêh nây Y-David khĭt hăn gŭ ndrel ma phung chô che păng, jêh ri bu tâp păng tâm ƀon Y-David. 11Rnôk Y-David chiă uăch phung Israel geh puăn jê̆t năm; păng chiă uănh ta ƀon Hêbron pơh năm jêh ri pe jê̆t ma pe năm ta ƀon Yêrusalem.
12Pônây Y-Salômôn gŭ ta sưng hađăch mbơ̆ păng, jêh ri ƀon bri hađăch păng nâp ngăn. Y-Salômôn Ƀư Nâp Ƀon Bri Hađăch Păng.
13Y-Adônija, kon buklâu H'Hagit hăn ma H'Batsêba, mê̆ Y-Salômôn. Jêh ri Y-Batsêba ôp păng: "May văch tât ma nau đăp mpăn lĕ?" Păng plơ̆ lah: "Ma nau đăp mpăn đŏng." 14Jêh nây ngơi tay: "Gâp geh du nau ŭch lah ma ay." Păng lah: "Ngơi hom"
15Y-Adônija ngơi: "Ay hŏ gĭt đŏng ma ƀon bri hađăch aơ jêng ndơ gâp, jêh ri lĕ rngôch phung Israel gŭ kâp gâp dadê chiă uănh, ƀiălah ƀon bri hađăch hŏ rlơ̆ jêng nkhơng ndơ oh gâp, nây jêng tă bơh Yêhôva dơm. 16Ƀiălah aƀaơ gâp geh du nau ŭch dăn ma ay; gay ma ay lơi ta dun.
 "Păng lah: "Ngơi hom."
17Y-Adônija ngơi: "Gâp dăn ma ay sâm ngơi an ma Hađăch-Salômôn-păng mâu mra dun ôh ma ay-ăn ma gâp H'Abisak bu ur Sunamit jêng ur gâp." 18H'Batsêba lah:
  "Ueh jêh, gâp mra ngơi ma hađăch nau may ŭch"
19H'Batsêba hăn mâp Hađăch-Salômôn gay sâm dăn ma hađăch ăn yor nau Y-Adônija. Hađăch dâk gay tâm mâp đah ôbăl, jêh ri kŭnh mbah panăp ôbăl; pônây, păng gŭ ta sưng hađăch păng, jêh ta nây păng ăn bu leo rnơl gŭ ma mê̆ hađăch, jêh ri ôbăl gŭ mpeh pa ma păng. 20Nôk nây ôbăl lah: "Gâp geh du nau jê̆ ŭch dăn ma may; gay ma may lơi dĭng dun ôh" Hađăch plơ̆ lah: "Hơi mê̆, dăn hom gâp mâu mra dun ôh."
21Ôbăl lah: "Ăn H'Abisak bu ur Sanamit jêng ur ma Y-Adônija, nâu may."
22Ƀiă lah Hađăch Salômôn plơ̆ lah ma mê̆ păng: "Mâm ay dăn ăn H'Abisak bu ur Sunamit jêng ur ma Y-Adônija? Mâm dĭng ay mâu dăn ƀon bri hađăch aơ ăn ma păng; yorlah păng jêng nâu gâp. Mâm dĭng ay mâu dăn ăn păng kôranh ƀư brah Y-Abiathar jêh ri Y-Jôap, kon buklâu Y-Sêruia mpeh ma păng." 23Nôk nây, Hađăch Salômôn ton sơm ma amoh Yêhôva, lah: "Ăn Yêhôva ƀư ma gâp tĭng nâm păng ŭch tơlah Y-Adônija mâu nkhĭt lơi ôh păng yor ma nau dăn aơ.
24Yor nây aƀaơ ri, gâp tâm amoh Yêhôva gŭ rêh, Nơm hŏ njêng jêh gâp dơi nâp, hŏ dơm gâp ta sưng Hađăch David, mbơ̆ gâp, jêh ri njêng jêh du mlâm ngih ma gâp, tĭng nâm păng hŏ ton, bu mra nkhĭt Y-Adônija nar aơ." 25Hađăch Salômôn ntrŭnh nau lah ma Y-Bênaya, kon bu klâu Y-Jêhôida. Ăn Y-Bênaya hăn nkhĭt Y-Adônija jêh ri păng khĭt. 26Hađăch lah ma kôranh ƀư brah Y-Abiathar: "Hăn sĭt hom ma ƀon Anathôt, chăm ntŭk ndrâm may nơm, yorlah may lĕ di ma nau khĭt. Ƀiălah nar aơ gâp mâu nkhĭt ôh may, yorlah may tung hip kôranh Brah Yêhôva ta năp mbơ̆ gâp, jêh ri may lĕ tă mâp geh ndrel lĕ rngôch nau rêh ni mbơ̆ gâp hŏ dơn."
27Pôri, Y-Salômôn mprơh lơi Y-Abiathar, mâu hôm kan kôranh ƀư brah ta năp măt Yêhôva đŏng ôh, gay ăn di ngăn nau Yêhôva ngơi jêh ma noi deh kôranh ƀư brah Y-Êli ta ƀon Silô. 28Tơlah nau tâm nkoch aơ tăng tôr Y-Jôap yorlah Y-Jôap rđâng an ma Y-Adônija, nđâp tơlah păng mâu rđâng an ôh ma Y-Apsalôm-Y-Jôap du rlet ma ngih bok Yêhôva jêh ri kuăn ta nke nơng ƀư brah. 29Bu mbơh ma Hađăch-Salômôn:
 "Y-Jôap du jêh rlet ma ngih bok Yêhôva, jêh ri, ri păng dôl kuăn nke gŭ êp ta meng nơng." Y-Salômôn lah ma Y-Bênaya, kon buklâu Y-Jêhôida pô aơ: "Hăn hom, nkhĭt lơi păng"
30Pô nây Y-Bênaya hăn tât Ngih bok Yêhôva jêh ri lah ma păng: "Hađăch ntĭnh, Luh hom." Ƀiălah Y-Jôap lah: "Mâu ôh, gâp mra khĭt ta aơ." Pôri Y-Bênaya plơ̆ mbơh tay ma hađăch, lah: "Pô aơ nau gâp lah ma Y-Jôap, jêh ri pre (păng) nkhơng lah trong ri." 31Hađăch lah: "Ƀư tĭng nâm nau păng nơm hŏ lah. Nkhĭt păng jêh ri leo tâp lơi păng; tâm ban pô nây gâp jêh ri ngih mbơ̆ gâp mra dơi jut nau tih pling mham Y-Jôap hoch mham mâu geh ôh geh nau tih. 32Yêhôva mra har plơng ƀư ăn păng pling mham ta kalơ bôk păng nơm. Yorlah, dôl mbơ̆ gâp jêng Y-David mâu gĭt ôh păng hŏ rduh lơh jêh ri nkhĭt bar hê buklâu sŏng ngăn jêh ri ueh lơn ma păng. Nây jêng Y-Apner, kon buklâu Y-Ner, kôranh tahan phung Israel; jêh ri Y-Amasa, kon buklâu Y-Jêther, kôranh tahan phung Yuda. 33Pônây mham khân ôbăl pling tay ta kalơ bôk Y-Jôap jêh ri ta kalơ bôk phung kon sau păng ƀaƀơ n'ho ro; ƀiălah Y-David jêh ri phung kon sau păng, ma ngih păng, jêh ri ma sưng hađăch păng mra dơi đăp mpăn tă bơh Yêhôva mro mrăng."
34Pônây, Y-Bênaya kon buklâu Y-Jêhôida, hăn hao, sreh Y-Jôap jêh ri nkhĭt lơi păng. Bu tâp brôi păng ta ngih păng nơm, dăch bri rdah. 35Hađăch dơm kan ma Y-Bênaya, kon buklâu Y-Jêhôida, jêng kôranh tahan ntrok Y-Jôap; jêh ri hađăch dơm kan ma Y-Sadôk kôranh ƀư brah ntrok Y-Abithar. 36Jêh tanây hađăch prơh bu hăn kuăl Y-Simei jêh ri lah ma păng: "Ăn may ƀư ngih may nơm tâm ƀon Yêrusalem, jêh ri gŭ ta nây.
 Lơi ta du bơh ntŭk nây gay hăn ta aơ ta ri.
37Yorlah ăn may gĭt ta nar may du luh tăbơh ntŭk nây jêh ri rgăn dak n'hor sêdrôn, nanê̆ ngăn may mra khĭt. Mham may mra pling ta kalơ bôk may nơm."
38Y-Simei lah ma hađăch: "Nau may lah jêng di ueh ngăn; tĭng nâm nau hađăch kôranh gâp lah jêh, tâm ban pônây lĕ oh mon may mra ƀư." Pô nây Y-Sêmei gŭ tâm ƀon Yêrusalem jŏ nar." 39Ƀiălah lôch pe năm, geh bar hê phung dĭk Y-Simei nchuăt du rlet ma Y-Akis, kon buklâu Y-Maka, hađăch ƀon Gat. Bu mbơh ma Y-Simei pô aơ:
 "Ta ri, phung dĭk may dôl gŭ ta ƀon Gat."
40Y-Simei dâk ro, dăp ưn seh bri păng, jêh ri hăn tât ƀon Gat, mâp Y-Akis gay hăn joi phung dĭk păng. Pônây Y-Simei hăn tât ƀon Gat jêh ri djôt sĭt mplơ̆ phung dĭk păng. 41Tơlah Hađăch Salômôn tăng bu mbơh ma Y-Simei luh jêh tă bơh ƀon Yêrusalem hăn rlet ma ƀon Gat jêh ri plơ̆ sĭt tay jêh,
42hađăch prơh bu hăn kuăl Y-Simei jêh ri lah: Di lĕ gâp hŏ đă may ton jêh ta năp măt Yêhôva, jêh ri ntĭnh dŭt katang ma may, lah: "Moh nar may luh bơh ƀon Yêrusalem gay hăn ta aơ ta ri nanê̆ ngăn may mra khĭt?' May hŏ lah ma gâp pô aơ:
  'Nau hađăch lah di ngăn. Gâp mra tông ngăn.'
43Pô nây mâm dĭng may mâu djôt prăp nau may ton sơm ma Yêhôva jêh ri nau gâp hŏ lah jêh ma may?"
44Hađăch ngơi tay ma Y-Simei: "May hŏ gĭt tâm nuih n'hâm may nơm rah vah jêh lĕ nau mhĭk may hŏ ƀư ma Y-David, mbơ̆ gâp. Aƀaơ ri Yêhôva mra har plơng ma may lĕ nau mhĭk may hŏ ƀư. 45Ƀiă lah Hađăch Salômôn mra geh nau mŏt ton, jêh ri sưng hađăch Y-David mra ăn nâp ta năp măt Yêhôva tât n'ho ro."
46Jêh nây, hađăch ntĭnh ma Y-Bênaya kon bu klâu Y-Jêhôida, jêh ri păng hăn sreh nkhĭt Y-Simei, jêh ri Y-Simei khĭt.
 Nôk nây ƀon bri hađăch jêng nâp tâm ti Y-Salômôn.