Lời trối của Đa-vít. – Người qua đời. – Sa-lô-môn khởi trị vì
1 Khi ngày của Đa-vít hầu trọn, người truyền lịnh cho Sa-lô-môn, con trai mình, mà rằng: 2 Ta hầu đi con đường chung của cả thế gian, khá mạnh dạn và nên người trượng phu! 3 Hãy giữ điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn con giữ, để đi trong đường lối Ngài, gìn giữ những luật pháp, điều răn, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, y như đã chép trong luật pháp của Môi-se, hầu cho con làm điều chi hay là đi nơi nào cũng đều được thành công, 4 và Đức Giê-hô-va sẽ làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán về ta, rằng: Nhược bằng các con trai ngươi cẩn thận về đường lối mình, hết lòng, hết ý theo lẽ thật mà đi ở trước mặt ta, thì ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên. 5 Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân.⚓6 Con hãy cứ sự khôn ngoan con mà cư xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm phủ cách bình yên. 7 Con hãy ở với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cách nhân từ cho họ ăn đồng bàn cùng con; vì chính chúng nó đã đãi cha như vậy, mà đến đón rước cha, lúc cha chạy trốn trước mặt Áp-sa-lôm, anh con.⚓8 Nầy còn kẻ ở với con, là Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim, là kẻ lấy những lời độc ác mà nguyền rủa cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im; nhưng nó xuống đón cha tại Giô-đanh, thì cha đã nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề với nó rằng: Ta sẽ chẳng giết ngươi bằng gươm.⚓9 Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn ngoan, biết thế nào phải xử nó: Con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm phủ. 10 Đa-vít an giấc với các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11 Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm: Người trị vì bảy năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem.⚓12 Đoạn, Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và nước người được lập rất vững bền.⚓ 13 A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đến cùng Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà nói: Ngươi đến có ý bình an chớ? Người thưa rằng: Phải, có ý bình an. 14 Người lại rằng: Tôi có một lời nói cùng bà. Bà đáp: Hãy nói. 15 Người tiếp: Bà biết rằng nước vốn thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong thấy tôi trị vì; nhưng ngôi nước đã trở nên của em tôi, vì do nơi Đức Giê-hô-va mà thuộc về người. 16 Vậy bây giờ, tôi có một sự xin với bà, chớ từ chối. Bà đáp: Hãy nói. 17 Người nói: Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn (vì người chẳng chối gì với bà), và cầu người cho tôi lấy A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ.⚓18 Bát-Sê-ba đáp: Được, ta sẽ nói với vua giùm cho ngươi. 19 Bát-Sê-ba đi đến vua Sa-lô-môn, để nói với người giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà; đoạn, người ngồi trên ngai mình, và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình; bà bèn ngồi bên tay hữu vua. 20 Bà nói với vua rằng: Mẹ có một việc nhỏ xin con, con chớ từ chối. Vua đáp: Mẹ ôi! Xin hãy nói; vì tôi sẽ chẳng từ chối với mẹ đâu. 21 Bà tiếp: Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, là anh con. 22 Nhưng vua Sa-lô-môn thưa cùng mẹ mình rằng: Cớ sao mẹ xin A-bi-sác, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Cũng hãy xin nước cho người luôn, vì người là anh cả tôi; hãy xin cho người, cho thầy tế lễ A-bia-tha, và cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia. 23 Vua Sa-lô-môn bèn chỉ Đức Giê-hô-va mà thề rằng: A-đô-ni-gia có nói lời đó nghịch với mạng sống mình; bằng chẳng, nguyện Đức Chúa Trời xử tôi cách nặng nề! 24 Bây giờ, tôi chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi vững vàng, và khiến tôi ngồi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, cùng lập một nhà cho tôi y như lời Ngài đã hứa, mà thề rằng: A-đô-ni-gia sẽ bị xử tử chính ngày hôm nay. 25 Vua Sa-lô-môn bèn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, xông đánh A-đô-ni-gia, thì người chết. 26 Đoạn, vua nói với thầy tế lễ A-bia-tha rằng: Hãy lui về A-na-tốt, trong đất ngươi, vì ngươi đáng chết. Song ngày nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng hòm giao ước của Chúa Giê-hô-va, trước mặt Đa-vít, là cha ta, và bởi vì ngươi đã bị hoạn nạn trong các sự hoạn nạn của cha ta.⚓27 Như vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha ra đi không cho làm thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va nữa, hầu cho lời của Đức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li, tại Si-lô, được ứng nghiệm.⚓ 28 Tin nầy thấu đến Giô-áp. (Vả Giô-áp đã theo phe A-đô-ni-gia, dầu không có theo phe của Áp-sa-lôm.) Người liền trốn đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, và nắm sừng của bàn thờ. 29 Người ta đến tâu với vua Sa-lô-môn rằng: Giô-áp đã trốn đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, và kìa người đứng bên cạnh bàn thờ. Sa-lô-môn bèn sai Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, mà dặn rằng: Hãy đi đánh giết hắn đi. 30 Bê-na-gia đi đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, nói cùng Giô-áp rằng: Vua có nói như vầy: Hãy ra khỏi đó. Giô-áp đáp: Không; ta muốn chết tại đây. Bê-na-gia đi thuật lại cho vua, và tâu rằng: Giô-áp đã nói và đáp lại như vậy. 31 Vua nói rằng: Hãy làm y như hắn nói. Hãy giết hắn và chôn đi. Như vậy, ngươi sẽ cất khỏi ta và khỏi nhà cha ta huyết mà Giô-áp đã đổ ra vô cớ. 32 Đức Giê-hô-va sẽ khiến huyết hắn đổ lại trên đầu hắn, vì hắn đã xông vào hai người công bình hơn, tốt hơn hắn, và giết họ bằng gươm, mà Đa-vít, cha ta, không hay đến chi cả: ấy là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, quan tướng của đạo binh Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, quan tướng của đạo binh Giu-đa. 33 Huyết hai người ấy sẽ đổ lại trên đầu Giô-áp và trên đầu của dòng dõi nó cho đến đời đời; còn phần Đa-vít và dòng dõi người, nhà và ngôi nước người sẽ nhờ Đức Giê-hô-va mà được bình yên mãi mãi. 34 Vậy, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, trở lên xông vào Giô-áp và giết người. Người được chôn ở nhà người, tại nơi đồng vắng. 35 Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm quan tổng binh thay cho Giô-áp, và lập Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha. 36 Đoạn, vua sai đòi Si-mê-i, và nói với người rằng: Hãy cất cho ngươi một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó; chớ ra đặng đi đầu nầy đầu kia. 37 Vì khá biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đó, và đi qua khe Xết-rôn, thì chắc ngươi sẽ chết: Huyết ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi. 38 Si-mê-i thưa với vua rằng: Lời ấy phải lắm, vua chúa tôi phán dặn điều gì, kẻ tôi tớ vua sẽ làm điều đó. Vậy, Si-mê-i ở lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem. 39 Cuối ba năm, xảy có hai kẻ tôi tớ của Si-mê-i trốn đến nhà A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta đến thuật điều đó cho Si-mê-i mà rằng: Kìa, hai kẻ tôi tớ ông ở tại Gát. 40 Si-mê-i chỗi dậy, thắng lừa mình, đi đến Gát, nơi nhà A-kích, đặng tìm hai kẻ tôi tớ mình. Gặp đoạn, bèn dẫn chúng nó về. 41 Người ta thuật cho Sa-lô-môn rằng Si-mê-i ở Giê-ru-sa-lem đã đi đến Gát, rồi trở về. 42 Vua sai đòi Si-mê-i mà phán rằng: Ta há chẳng có bắt ngươi chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và bảo ngươi trước rằng: Khá biết rằng ngày nào ngươi ra, và đi đầu nầy đầu kia, thì ngươi chắc sẽ chết, sao? Và ngươi có thưa cùng ta rằng: Lời tôi đã nghe, thậm phải. 43 Vậy, cớ sao ngươi không giữ lời chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và mạng lịnh ta đã truyền cho ngươi? 44 Vua lại nói với Si-mê-i rằng: Ngươi biết mọi sự ác ngươi đã làm cho Đa-vít, là cha ta, mà lòng ngươi vẫn còn nhớ lắm. Vậy nên Đức Giê-hô-va sẽ khiến sự ác của ngươi đổ lại trên đầu ngươi. 45 Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được phước, và ngôi của Đa-vít sẽ được lập vững bền trước mặt Đức Giê-hô-va đến đời đời. 46 Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa; người bèn đi ra đánh giết Si-mê-i. Như vậy, ngôi nước được vững bền trong tay Sa-lô-môn.
2
Davi nkaw lus rau Xalaumoo
1Thaum ze lub sijhawm uas Davi yuav tag sim neej mas nws nkaw lus rau nws tus tub Xalaumoo tias, 2“Kuv tabtom yuav dua mus ib yam li ib tsoom neeg ntiajteb. Koj cia li ua khov kho yam li ib tug txivneej yawg, 3thiab tuav rawv tej lus uas koj tus Vajtswv Yawmsaub hais, ua lub neej raws li nws txojkev, thiab tuav rawv nws tej kab ke thiab nws tej lus nkaw thiab nws tej kevcai thiab nws tej lus qhia raws li uas twb muab sau cia rau hauv Mauxe phau kevcai, xwv koj thiaj li vam meej rau txhua yam haujlwm uas koj ua thiab rau txhua qhov uas koj mus, 4mas Yawmsaub thiaj ua raws li nws tej lus uas nws hais ntsig txog kuv tias, ‘Yog koj tej tub ki ceev faj rau txhua txojkev uas lawv ua thiab ua lawv lub neej xib rau ntawm kuv lub xubntiag kawg siab kawg ntsws, mas koj caj ces yuav tsis tu ncua tus txivneej uas nyob saum cov Yixayee lub zwm txwv.’ 5“Dua ib qho koj yeej paub tias Xeluya tus tub Yau‑a tau ua li cas rau kuv lawm. Koj paub tias nws ua li cas rau ob tug thawj uas kav Yixayee cov tub rog, yog ua rau Naw tus tub Anaw thiab ua rau Yethaw tus tub Amaxa uas nws cia li muab tua rau thaum lub tebchaws tus lawd, ua pauj tej ntshav uas los rau thaum uas tseem ua rog. Nws muab tej ntshav uas tsis txhaum ntawd ua tso rau saum nws⚓ txoj siv ntawm duav thiab tso rau saum nws txhais khau ntawm nws kotaw. 6Vim li no cia li ua raws li koj lub tswvyim pom zoo, tsis txhob cia nws tus dawb hau mus ua siab tus yees rau hauv tub tuag teb. 7Cia li ua zoo rau Npaxilai uas yog neeg Kile‑a cov tub, kheev lawv nrog koj koom rooj noj mov ua ke, rau qhov thaum uas kuv khiav koj tus tijlaug Axaloo mus lawv tau ua zoo kawg rau kuv ib yam li ntawd. 8Muaj Kela tus tub Sime‑i uas yog xeem Npeeyamee uas nyob hauv lub moos Npahuli kuj nrog koj nyob ua ke no. Hnub uas kuv mus rau lub moos Mahana‑i mas nws cem foom kuv tsis zoo heev kawg li, tiamsis thaum nws tuaj tos kuv ntawm ntug dej Yaladee, mas kuv tuav Yawmsaub lub npe cog lus twv rau nws tias, kuv yuav tsis xuas ntaj tua nws. 9Vim li ntawd koj tsis txhob suav tias nws tsis txhaum. Koj twb muaj tswvyim, koj kuj paub tias tsim nyog koj yuav ua li cas rau nws. Koj cia li coj nws lub taubhau dawb paug nrog nws cov ntshav nqes rau hauv tub tuag teb.”
Davi tuag
10Ces Davi txawm tuag mus nrog nws tej poj koob yawm txwv nyob mas lawv muab nws log rau hauv Davi lub nroog. 11Lub sijhawm uas Davi kav cov Yixayee yog plaub caug xyoo. Nws nyob hauv Heploo kav tau xya xyoo, nyob hauv Yeluxalees kav tau peb caug peb xyoo. 12Xalaumoo thiaj sawv nyob nws txiv Davi lub zwm txwv, mas nws kav tau tebchaws ruaj khov.
Xalaumoo tswjhwm tau nws lub tebchaws
13Hakis⚓ tus tub Adauniya tuaj cuag Npasenpa uas yog Xalaumoo niam. Mas Npasenpa nug nws tias, “Koj tuaj ua zoo lov?” Adauniya teb tias, “Kuv tuaj ua zoo xwb. 14Kuv muaj ib lo lus yuav hais rau koj.” Npasenpa hais tias, “Cia li hais maj.” 15Nws thiaj hais tias, “Koj yeej paub tias kuv thiaj yog tus uas yuav kav lub tebchaws, thiab tag nrho cov Yixayee sawvdaws yeej npaj siab tias kuv yuav tau kav. Txawm li cas los xij lub tebchaws poob los rau kuv tus kwv lawm, vim yog Yawmsaub pub rau nws kav. 16Mas nimno kuv tsuas thov ib yam xwb, thov koj tsis txhob xyeej txhem.” Npasenpa hais rau nws tias, “Cia li hais maj.” 17Adauniya thiaj hais tias, “Thov koj mus thov vajntxwv, nyaj nws yuav tsis xyeej txhem koj, yog thov nws muab Anpisa uas yog neeg hauv lub moos Sunee rau kuv yuav ua pojniam.” 18Npasenpa hais tias, “Zoo kawg, kuv yuav mus pab koj hais rau vajntxwv.” 19Npasenpa txawm mus cuag vajntxwv Xalaumoo pab Adauniya hais rau vajntxwv. Mas vajntxwv sawv tsees fim nws thiab nyo hau rau nws. Ces txawm rov zaum saum lub zwm txwv mas hais kom muab rooj rau vajntxwv niam nyob. Leej niam thiaj los nyob ntawm nws sab xis, 20mas hais tias, “Kuv yuav thov ib nyuag yam ntawm koj, koj tsis txhob xyeej txhem kuv.” Ces vajntxwv txawm hais tias, “Niam, thov maj, kuv yuav tsis xyeej txhem koj.” 21Leej niam thiaj hais tias, “Thov muab Anpisa uas yog neeg hauv Sunee rau koj tus tijlaug Adauniya yuav ua pojniam.” 22Vajntxwv Xalaumoo teb nws niam tias, “Ua cas koj yuav thov Anpisa uas yog neeg hauv Sunee rau Adauniya yuav? Cia li thov kiag lub tebchaws rau nws thiab los maj, rau qhov nws twb yog kuv li tijlaug thiab nws twb muaj tus pov thawj Anpiyatha thiab Xeluya tus tub Yau‑a tuaj nws tog.” 23Vajntxwv Xalaumoo txawm tuav Yawmsaub lub npe cog lus twv hais tias, “Yog tej lus no tsis ua rau Adauniya txojsia tu mas cia Vajtswv rau txim rau kuv hnyav dua li ntawd thiab. 24Vim li no, muaj Yawmsaub muaj txojsia nyob pom, Yawmsaub uas yog tus tsa kuv kom nyob ruaj khov thiab muab kuv txawb rau saum kuv txiv Davi lub zwm txwv, thiab pub kuv caj ces kav mus li, raws li Yawmsaub tau cog lus cia, mas Adauniya yeej yuav raug muab tua hnub no ntag.” 25Yog li ntawd vajntxwv Xalaumoo thiaj txib Yehauyada tus tub Npenaya mus muab Adauniya tua, nws thiaj tuag lawm. 26Vajntxwv hais rau tus pov thawj Anpiyatha tias, “Cia li mus rau lub moos Anathau mus nyob hauv koj daim teb, rau qhov koj mas tsim nyog tuag lawm. Tiamsis lub sijhawm no kuv tsis tua koj vim yog koj tau kwv Vajtswv Yawmsaub lub phij xab ua kuv txiv Davi ntej, thiab vim koj tau nrog kuv txiv raug txhua yam kev txom nyem ua ke.” 27Xalaumoo thiaj muab Anpiyatha raws tawm qhov uas ua Yawmsaub li pov thawj, thiaj tiav raws li Yawmsaub tej lus uas hais txog Eli caj ces hauv lub moos Silau. 28Thaum tej xov no nrov mus txog Yau‑a, txawm yog Yau‑a tsis tuaj Axaloo tog los nws tuaj Adauniya tog, mas Yau‑a thiaj khiav mus rau Yawmsaub lub tsev ntaub thiab mus tuav rawv cov kub ntawm lub thaj xyeem. 29Thaum uas muaj neeg mus hais rau vajntxwv Xalaumoo tias, “Yau‑a twb khiav mus rau ntawm Yawmsaub lub tsev ntaub lawm thiab nws nyob ntawm lub thaj xyeem ib sab,” mas Xalaumoo thiaj txib Yehauyada tus tub Npenaya mus, hais tias, “Cia li mus muab nws tua pov tseg.” 30Npenaya thiaj mus rau ntawm Yawmsaub lub tsev ntaub mas hais rau Yau‑a tias, “Vajntxwv kom koj cia li tawm los.” Yau‑a teb tias, “Kuv tsis tawm li, kuv yeem tuag ntawm no.” Ces Npenaya kuj coj xov mus hais rau vajntxwv tias, “Yau‑a hais li ntawd ntag, nws teb kuv li no ntag.” 31Vajntxwv teb nws tias, “Cia li ua raws li nws hais rau nws. Cia li muab nws tua thiab muab faus tseg. Ua li no xwv thiaj ntxuav tau lub txim uas Yau‑a tua tej neeg tsis txhaum tawm ntawm kuv thiab kuv txiv caj ces mus. 32Yawmsaub yuav coj qhov uas nws tua lwm tus los ntshav ntawd rov los poob rau saum nws taubhau, rau qhov nws tau xuas ntaj tua ob tug txivneej uas ncaj ncees dua thiab zoo dua nws, uas kuv txiv Davi kuj tsis paub li, yog Naw tus tub Anaw uas ua thawj kav cov tub rog Yixayee thiab Yethaw tus tub Amaxa uas ua thawj kav cov tub rog Yuda. 33Mas ob tug tuag no cov ntshav yuav poob rau saum Yau‑a thiab nws caj ces taubhau ib txhiab ib txhis, tiamsis Davi thiab nws tej tub ki thiab nws caj ces thiab nws lub zwm txwv Yawmsaub yuav pub kom nyob tus yees ib txhiab ib txhis.” 34Yehauyada tus tub Npenaya txawm mus tua Yau‑a tuag mas muab nws log rau ntawm nws lub tsev hauv tebchaws moj sab qhua. 35Vajntxwv Xalaumoo tsa Yehauyada tus tub Npenaya ua thawj kav tub rog nyob Yau‑a chaw, thiab vajntxwv tsa Xadau ua pov thawj nyob Anpiyatha chaw. 36Vajntxwv txib neeg mus hu Sime‑i tuaj mas hais rau nws tias, “Koj cia li ua tsev rau hauv Yeluxalees thiab nyob twjywm qhov ntawd, tsis txhob tawm mus qhovtwg li. 37Yog hnub twg koj tawm hla lub hav Khiloo ntawd mus, mas koj cia li paub tseeb tias koj yuav tuag. Qhov uas koj tuag ntawd koj yuav ris koj xwb.” 38Mas Sime‑i hais rau vajntxwv tias, “Qhov uas vajntxwv hais li no kuj zoo kawg. Vajntxwv uas yog kuv tus tswv hais li cas los kuv uas yog koj tus qhev yuav ua li ntawd.” Sime‑i thiaj li nyob hauv Yeluxalees tau ntev. 39Nyob tau peb xyoos mas Sime‑i ob tug qhev khiav mus cuag Ma‑akha tus tub Akhij uas ua vajntxwv hauv lub moos Ka. Mas thaum muaj neeg hais rau Sime‑i tias, “Koj ob tug qhev nyob hauv lub moos Ka,” 40Sime‑i txawm sawv tsees nog eeb rau saum nees luav mus cuag Akhij hauv lub moos Ka mus nrhiav nws ob tug qhev. Sime‑i tau mus coj nws ob tug qhev ntawm lub moos Ka los. 41Thaum muaj neeg hais rau Xalaumoo tias Sime‑i twb tawm hauv Yeluxalees mus txog lub moos Ka thiab rov qab los lawm, 42vajntxwv txawm txib neeg mus hu Sime‑i tuaj mas hais rau nws tias, “Kuv twb kom koj tuav Yawmsaub lub npe cog lus twv tseg thiab kuv nkaw lus rau koj tias, ‘Koj cia li paub tseeb tias hnub twg koj tawm mus tsis hais koj mus rau qhovtwg koj yuav tuag xwb.’ Mas koj twb teb kuv tias, ‘Tej lus uas koj hais no zoo kawg li, kuv yuav mloog koj lus.’ 43Ua li cas koj tsis ceev cov lus uas koj cog rau Yawmsaub lawm thiab tsis ceev tej lus uas kuv hais kom koj ua?” 44Vajntxwv rov hais dua rau Sime‑i tias, “Koj yeej paub tej kev phem uas koj ua rau kuv txiv Davi huvsi hauv koj lub siab lawm. Vim li no Yawmsaub yuav muab tej kev phem rov los pauj rau saum koj lub taubhau. 45Tiamsis vajntxwv Xalaumoo yuav tau hmoov zoo thiab Davi lub zwm txwv yuav nyob ruaj khov rau ntawm Yawmsaub xubntiag mus ib txhis.” 46Mas vajntxwv txawm hais rau Yehauyada tus tub Npenaya mas nws tawm mus muab Sime‑i tua pov tseg, Sime‑i thiaj li tuag. Ua li no lub tebchaws thiaj nyob ruaj khov rau hauv Xalaumoo txhais tes.