2

Lời trối của Đa-vít. – Người qua đời. – Sa-lô-môn khởi trị vì

1 Khi ngày của Đa-vít hầu trọn, người truyền lịnh cho Sa-lô-môn, con trai mình, mà rằng: 2 Ta hầu đi con đường chung của cả thế gian, khá mạnh dạn và nên người trượng phu! 3 Hãy giữ điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn con giữ, để đi trong đường lối Ngài, gìn giữ những luật pháp, điều răn, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, y như đã chép trong luật pháp của Môi-se, hầu cho con làm điều chi hay là đi nơi nào cũng đều được thành công, 4 và Đức Giê-hô-va sẽ làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán về ta, rằng: Nhược bằng các con trai ngươi cẩn thận về đường lối mình, hết lòng, hết ý theo lẽ thật mà đi ở trước mặt ta, thì ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên.
5 Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân. 6 Con hãy cứ sự khôn ngoan con mà cư xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm phủ cách bình yên.
7 Con hãy ở với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cách nhân từ cho họ ăn đồng bàn cùng con; vì chính chúng nó đã đãi cha như vậy, mà đến đón rước cha, lúc cha chạy trốn trước mặt Áp-sa-lôm, anh con. 8 Nầy còn kẻ ở với con, là Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim, là kẻ lấy những lời độc ác mà nguyền rủa cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im; nhưng nó xuống đón cha tại Giô-đanh, thì cha đã nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề với nó rằng: Ta sẽ chẳng giết ngươi bằng gươm. 9 Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn ngoan, biết thế nào phải xử nó: Con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm phủ.
10 Đa-vít an giấc với các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11 Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm: Người trị vì bảy năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12 Đoạn, Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và nước người được lập rất vững bền.
13 A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đến cùng Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà nói: Ngươi đến có ý bình an chớ? Người thưa rằng: Phải, có ý bình an. 14 Người lại rằng: Tôi có một lời nói cùng bà. Bà đáp: Hãy nói. 15 Người tiếp: Bà biết rằng nước vốn thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong thấy tôi trị vì; nhưng ngôi nước đã trở nên của em tôi, vì do nơi Đức Giê-hô-va mà thuộc về người. 16 Vậy bây giờ, tôi có một sự xin với bà, chớ từ chối. Bà đáp: Hãy nói. 17 Người nói: Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn (vì người chẳng chối gì với bà), và cầu người cho tôi lấy A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ. 18 Bát-Sê-ba đáp: Được, ta sẽ nói với vua giùm cho ngươi.
19 Bát-Sê-ba đi đến vua Sa-lô-môn, để nói với người giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà; đoạn, người ngồi trên ngai mình, và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình; bà bèn ngồi bên tay hữu vua. 20 Bà nói với vua rằng: Mẹ có một việc nhỏ xin con, con chớ từ chối. Vua đáp: Mẹ ôi! Xin hãy nói; vì tôi sẽ chẳng từ chối với mẹ đâu. 21 Bà tiếp: Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, là anh con. 22 Nhưng vua Sa-lô-môn thưa cùng mẹ mình rằng: Cớ sao mẹ xin A-bi-sác, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Cũng hãy xin nước cho người luôn, vì người là anh cả tôi; hãy xin cho người, cho thầy tế lễ A-bia-tha, và cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia.
23 Vua Sa-lô-môn bèn chỉ Đức Giê-hô-va mà thề rằng: A-đô-ni-gia có nói lời đó nghịch với mạng sống mình; bằng chẳng, nguyện Đức Chúa Trời xử tôi cách nặng nề! 24 Bây giờ, tôi chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi vững vàng, và khiến tôi ngồi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, cùng lập một nhà cho tôi y như lời Ngài đã hứa, mà thề rằng: A-đô-ni-gia sẽ bị xử tử chính ngày hôm nay. 25 Vua Sa-lô-môn bèn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, xông đánh A-đô-ni-gia, thì người chết.
26 Đoạn, vua nói với thầy tế lễ A-bia-tha rằng: Hãy lui về A-na-tốt, trong đất ngươi, vì ngươi đáng chết. Song ngày nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng hòm giao ước của Chúa Giê-hô-va, trước mặt Đa-vít, là cha ta, và bởi vì ngươi đã bị hoạn nạn trong các sự hoạn nạn của cha ta. 27 Như vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha ra đi không cho làm thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va nữa, hầu cho lời của Đức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li, tại Si-lô, được ứng nghiệm.
28 Tin nầy thấu đến Giô-áp. (Vả Giô-áp đã theo phe A-đô-ni-gia, dầu không có theo phe của Áp-sa-lôm.) Người liền trốn đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, và nắm sừng của bàn thờ. 29 Người ta đến tâu với vua Sa-lô-môn rằng: Giô-áp đã trốn đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, và kìa người đứng bên cạnh bàn thờ. Sa-lô-môn bèn sai Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, mà dặn rằng: Hãy đi đánh giết hắn đi. 30 Bê-na-gia đi đến Đền tạm của Đức Giê-hô-va, nói cùng Giô-áp rằng: Vua có nói như vầy: Hãy ra khỏi đó. Giô-áp đáp: Không; ta muốn chết tại đây. Bê-na-gia đi thuật lại cho vua, và tâu rằng: Giô-áp đã nói và đáp lại như vậy. 31 Vua nói rằng: Hãy làm y như hắn nói. Hãy giết hắn và chôn đi. Như vậy, ngươi sẽ cất khỏi ta và khỏi nhà cha ta huyết mà Giô-áp đã đổ ra vô cớ. 32 Đức Giê-hô-va sẽ khiến huyết hắn đổ lại trên đầu hắn, vì hắn đã xông vào hai người công bình hơn, tốt hơn hắn, và giết họ bằng gươm, mà Đa-vít, cha ta, không hay đến chi cả: ấy là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, quan tướng của đạo binh Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, quan tướng của đạo binh Giu-đa. 33 Huyết hai người ấy sẽ đổ lại trên đầu Giô-áp và trên đầu của dòng dõi nó cho đến đời đời; còn phần Đa-vít và dòng dõi người, nhà và ngôi nước người sẽ nhờ Đức Giê-hô-va mà được bình yên mãi mãi. 34 Vậy, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, trở lên xông vào Giô-áp và giết người. Người được chôn ở nhà người, tại nơi đồng vắng. 35 Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm quan tổng binh thay cho Giô-áp, và lập Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha.
36 Đoạn, vua sai đòi Si-mê-i, và nói với người rằng: Hãy cất cho ngươi một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó; chớ ra đặng đi đầu nầy đầu kia. 37 Vì khá biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đó, và đi qua khe Xết-rôn, thì chắc ngươi sẽ chết: Huyết ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi. 38 Si-mê-i thưa với vua rằng: Lời ấy phải lắm, vua chúa tôi phán dặn điều gì, kẻ tôi tớ vua sẽ làm điều đó. Vậy, Si-mê-i ở lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem.
39 Cuối ba năm, xảy có hai kẻ tôi tớ của Si-mê-i trốn đến nhà A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta đến thuật điều đó cho Si-mê-i mà rằng: Kìa, hai kẻ tôi tớ ông ở tại Gát. 40 Si-mê-i chỗi dậy, thắng lừa mình, đi đến Gát, nơi nhà A-kích, đặng tìm hai kẻ tôi tớ mình. Gặp đoạn, bèn dẫn chúng nó về. 41 Người ta thuật cho Sa-lô-môn rằng Si-mê-i ở Giê-ru-sa-lem đã đi đến Gát, rồi trở về. 42 Vua sai đòi Si-mê-i mà phán rằng: Ta há chẳng có bắt ngươi chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và bảo ngươi trước rằng: Khá biết rằng ngày nào ngươi ra, và đi đầu nầy đầu kia, thì ngươi chắc sẽ chết, sao? Và ngươi có thưa cùng ta rằng: Lời tôi đã nghe, thậm phải. 43 Vậy, cớ sao ngươi không giữ lời chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và mạng lịnh ta đã truyền cho ngươi? 44 Vua lại nói với Si-mê-i rằng: Ngươi biết mọi sự ác ngươi đã làm cho Đa-vít, là cha ta, mà lòng ngươi vẫn còn nhớ lắm. Vậy nên Đức Giê-hô-va sẽ khiến sự ác của ngươi đổ lại trên đầu ngươi. 45 Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được phước, và ngôi của Đa-vít sẽ được lập vững bền trước mặt Đức Giê-hô-va đến đời đời. 46 Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa; người bèn đi ra đánh giết Si-mê-i. Như vậy, ngôi nước được vững bền trong tay Sa-lô-môn.

2

Tơlơi Dawid Kơčrâo Brơi Hơnăl Tuč Kơ Solomôn

1Tơdang jĕ hrơi mông kơ Dawid tơĭ pran laih, ñu djru pơmĭn kơ ană đah rơkơi ñu Solomôn yơh.
2Ñu laĭ tui anai, “Kâo jĕ či djai laih yơh. Kơjăp kơtang bĕ, pơrơđah bĕ ih pô jing sa čô đah rơkơi tơpă hơnơ̆ng, 3laih anŭn lăng tui bĕ hơdôm tơlơi Yahweh Ơi Adai ih hơduah kiăng tui anai: Rơbat bĕ amăng hơdră jơlan Ñu, djă̱ pioh bĕ khul tơlơi pơtă hăng tơlơi pơđar Ñu, laih anŭn khul tơlơi juăt hăng tơlơi hơduah kiăng Ñu, jing khul tơlơi hơmâo čih laih amăng Tơlơi Juăt Môseh; tui anŭn ih dưi đĭ kơyar yơh amăng abih bang tơlơi ih ngă laih anŭn pơpă anih ih nao. 4Tơdah ih ngă tui anŭn, Yahweh dưi djă̱ pioh yơh tơlơi Ñu ƀuăn hăng kâo tui anai, ‘Tơdah ƀing ană tơčô ih răng kơ tơlơi ƀing gơñu hơdip hơdơ̆ng laih anŭn rơbat tŏng ten ƀơi anăp Kâo hăng abih pran jua abih jua bơngăt gơñu, tui anŭn ƀu či rơngiă hĭ ôh pô ană tơčô ih dŏ ƀơi grê pơtao kiăng kơ git gai wai lăng lŏn čar ƀing Israel.’
5“Hloh kơ anŭn dơ̆ng, ih pô thâo laih hơget tơlơi Yôab ană đah rơkơi HʼZeruyah ngă laih kơ kâo, anŭn jing tơlơi ñu ngă laih kơ dua čô khua git gai ƀing ling tơhan Israel, jing Abner ană đah rơkơi Nêr laih anŭn Amasa ană đah rơkơi Yether. Ñu pơdjai hĭ ƀing gơ̆, ngă tuh drah ƀing gơ̆ amăng mông rơnŭk rơno̱m kar hăng pơdjai rŏh ayăt amăng mông tơlơi pơblah. Tui anŭn, tơlơi tuh drah anŭn yơh hơmâo hĭ laih gru sat ƀơi hơdrăng kơiăng jum dar kơiăng ñu laih anŭn tơkhŏ sanđal ƀơi plă̱ tơkai ñu. 6Ngă bĕ kơ ñu tui hăng tơlơi rơgơi ih, samơ̆ anăm brơi ôh kơ ñu hơdip truh kơ ñu djai tha rơnŭk rơno̱m.
7“Samơ̆ pơrơđah bĕ tơlơi hiam klă kơ ƀing ană đah rơkơi Barzillai mơnuih mơ̆ng tring Gilead laih anŭn brơi bĕ ƀing gơ̆ jing amăng ƀing ƀơ̆ng huă nanao hăng gơnam ƀơ̆ng sang pơtao ih. Ƀing gơñu yơh djru kơ kâo tơdang kâo đuaĭ kơdŏp mơ̆ng ayŏng ih Absalôm.
8“Hơdơr bĕ, ih hơmâo hrŏm hăng ih Simei ană đah rơkơi Gêra, mơnuih kơnung djuai Benyamin mơ̆ng plei Bahurim, jing pô hơtŏm păh ƀơi kâo amăng hrơi kâo nao pơ plei Mahanaim. Samơ̆ tơdơi kơ anŭn, tơdang ñu trŭn nao rơkâo pap kơ kâo ƀơi krong Yurdan, kâo ƀuăn rơ̆ng hăng ñu amăng anăn Yahweh tui anai, ‘Kâo ƀu či pơdjai hĭ ih hăng đao ôh.’ 9Samơ̆ kơđai glaĭ, anăm lăng kơ ñu jing mơnuih ƀu hơmâo tơlơi soh ôh. Ih jing mơnuih rơgơi, tui anŭn ih či thâo yơh hơget tơlơi khŏm ngă kơ ñu anŭn. Wơ̆t tơdah ñu jing pô tha laih, ih ăt khŏm pơdjai hĭ bĕ ñu hăng đao.”
10Tơdơi kơ anŭn, Dawid tơĭ pran laih anŭn arăng dơ̱r ñu amăng Plei Dawid yơh. 11Ñu hơmâo git gai wai lăng ƀing Israel amăng pă̱pluh thŭn tui anai: tơjuh thŭn ƀơi anih Hebrôn laih anŭn klâopluh-klâo thŭn amăng plei Yerusalaim. 12Tui anŭn yơh, Solomôn dŏ ƀơi grê pơtao ama ñu Dawid ngă pơtao laih anŭn tơlơi wai lăng ñu kơjăp prŏng tui.

Solomôn Pơkơjăp Tơlơi Git Gai Wai Lăng Ñu

13Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Adôniyah ană đah rơkơi HʼHagit, rai pơ HʼBatseba jing amĭ Solomôn. HʼBatseba tơña kơ ñu tui anai, “Ih rai hăng tơlơi rơnŭk rơnua mơ̆?”
 Ñu laĭ glaĭ, “Ơ, rơnŭk rơnua yơh.”
14Giŏng anŭn, Adôniyah laĭ dơ̆ng tui anai, “Kâo hơmâo ƀiă tơlơi kiăng pơhiăp hăng ih.”
 HʼBatseba laĭ tui anai, “Ih dưi pơhiăp yơh.”
15Ñu laĭ, “Kar hăng ih thâo laih, tơlơi git gai lŏn čar anai năng lŏm kơ kâo hlâo adih. Abih bang ƀing Israel lăng nao pơ kâo yơh či jing pơtao gơñu, samơ̆ tơlơi anŭn pơplih hĭ laih. Tui anŭn, tơlơi git gai lŏn čar anai lŏm hĭ laih kơ adơi kâo, yuakơ tơlơi anŭn jing tơlơi Yahweh kiăng yơh. 16Ră anai kâo kơnơ̆ng hơmâo sa tơlơi rơkâo đôč kiăng pơhiăp hăng ih. Anăm hơngah hĭ kâo ôh.”
 HʼBatseba laĭ glaĭ, “Pơhiăp bĕ.”
17Tui anŭn, Adôniyah laĭ tui anai, “Rơkâo kơ ih tơña pơtao Solomôn pha brơi bĕ kơ kâo HʼAbisag mơ̆ng plei Sunêm anŭn jing bơnai kâo. Sĭt ñu ƀu hơngah hĭ tơlơi ih tơña ôh.” 18HʼBatseba laĭ glaĭ tui anai, “Ơ, kâo či pơhiăp hăng pơtao brơi kơ ih.”
19Tơdang HʼBatseba nao pơ pơtao Solomôn kiăng pơhiăp hăng ñu kơ tơlơi Adôniyah, pơtao tơgŭ dơ̆ng kiăng bưp gơ̆ laih anŭn tơkui kơkuh kơ gơ̆. Giŏng anŭn, ñu dŏ be̱r glaĭ ƀơi grê pơtao ñu laih anŭn ăt brơi kơ arăng ba rai sa boh grê pơtao mơ̆n kơ amĭ ñu laih anŭn brơi gơ̆ dŏ ƀơi gah hơnuă kơ ñu pô yơh.
20Amĭ ñu laĭ tui anai, “Kâo hơmâo sa tơlơi rơkâo anet hăng ih. Anăm hơngah hĭ kâo ôh.”
 Pơtao laĭ tui anai, “Laĭ bĕ amĭ ăh, kâo ƀu či hơngah hĭ ôh.”
21Tui anŭn, gơ̆ rơkâo tui anai, “Brơi bĕ HʼAbisag mơ̆ng plei Sunêm anŭn pơdŏ hăng ayŏng ih Adôniyah.” 22Pơtao Solomôn laĭ glaĭ kơ amĭ ñu tui anai, “Yua hơget ih rơkâo HʼAbisag kơ Adôniyah lĕ? Tơlơi anai jing ih ăt rơkâo tơlơi git gai lŏn čar anai kơ ñu mơ̆n! Ih thâo laih, ñu ăt jing ayŏng kâo mơ̆n! Laih dơ̆ng, anŭn ih ăt rơkâo mơ̆n tơlơi dưi kơ Abiathar khua ngă yang prŏng hloh laih anŭn kơ Yôab ană đah rơkơi HʼZeruyah, yuakơ ƀing gơñu jing ƀing djru kơ Adôniyah!”
23Giŏng anŭn, pơtao Solomôn ƀuăn hăng Yahweh tui anai, “Adôniyah khŏm kla hĭ tơlơi hơdip ñu kơ tơlơi rơkâo anai! Tơdah ƀu djơ̆ tui anŭn ôh, rơkâo kơ Ơi Adai ngă sat kơ kâo gleh tơnap biă mă yơh. 24Yahweh hơmâo pơkơtang laih kâo dŏ rơnŭk rơnua ƀơi grê pơtao ama kâo Dawid laih anŭn hơmâo pơkơjăp laih sa rơnŭk git gai kơ kâo kar hăng Ñu ƀuăn laih. Tui anŭn, kâo ƀuăn amăng Yahweh Pô hơdip hlŏng lar, Adôniyah či tŭ tơlơi djai yơh hrơi anai!” 25Giŏng anŭn, pơtao Solomôn pơkiaŏ Benayah nao laih anŭn ñu nao pơdjai hĭ Adôniyah hăng đao yơh.
26Bơ kơ khua ngă yang Abiathar, pơtao laĭ hăng ñu tui anai, “Glaĭ bĕ pơ plei Anathôt jing anih hơmâo đang hơma ih. Ih năng kơ djai yơh, samơ̆ kâo ƀu či pơdjai hĭ ih ră anai ôh, yuakơ ih grơ̆ng glăm amăng bruă čơkŭng laih hip Khua Yang Yahweh ƀơi anăp ama kâo Dawid laih anŭn tŭ hrŏm hăng abih bang tơlơi tơnap tap ama kâo.” 27Tui anŭn, Solomôn mă pơđuaĭ hĭ Abiathar mơ̆ng bruă khua ngă yang kơ Yahweh. Tơlơi anŭn truh kiăng kơ pơkrĕp hĭ boh hiăp Yahweh hơmâo pơhiăp laih kơ sang anŏ Êli amăng plei pơnăng Silôh.
28Bơ kơ Yôab, wơ̆t tơdah ñu ƀu pơčrŏng sai ôh hrŏm hăng Absalôm kiăng kơ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao Dawid, ñu pơčrŏng sai hrŏm hăng Adôniyah kiăng kơ gơ̆ jing pơtao. Tui anŭn, tơdang Yôab hơmư̆ tơlơi pơthâo phrâo kơ Adôniyah, ñu đuaĭ kơdŏp nao pơ sang khăn Yahweh laih anŭn djă̱ ƀơi tơki kơnưl ngă yang yơh kiăng kơ pơtao ƀu pơdjai hĭ ôh. 29Tơdang pơtao Solomôn hơmư̆ Yôab đuaĭ kơdŏp nao pơ sang khăn Yahweh laih anŭn dŏ jĕ kơnưl ngă yang, ñu pơkiaŏ nao Benayah tui anai, “Nao pơdjai hĭ ñu hăng đao bĕ!”
30Tui anŭn, Benayah mŭt nao amăng sang khăn Yahweh laih anŭn laĭ kơ Yôab tui anai, “Pơtao pơđar, ‘Tơbiă bĕ!’ ” Samơ̆ ñu laĭ glaĭ tui anai, “Ơ ơh, kâo či djai ƀơi anai yơh.” Giŏng anŭn, Benayah nao ruai glaĭ kơ pơtao tơlơi Yôab laĭ laih hăng ñu anŭn.
31Giŏng anŭn, pơtao pơđar kơ Benayah tui anai, “Ngă bĕ tui hăng tơlơi ñu rơkâo. Pơdjai hĭ bĕ ñu hăng đao laih anŭn dơ̱r hĭ ñu bĕ, kiăng kơ arăng ƀu yap ôh kơ kâo hăng sang anŏ ama kâo grơ̆ng glăm brơi tơlơi soh Yôab hơmâo ngă laih, jing tơlơi ñu hơmâo pơdjai hĭ laih dua čô mơnuih ƀu hơmâo tơhơnal tơlơi anŭn. 32Yahweh či kla glaĭ kơ ñu drah ñu tuh laih, yuakơ ñu hơmâo kơsung pơdjai hĭ dua čô mơnuih anŭn hăng đao tơl ama kâo Dawid ƀu thâo ôh. Dua čô anŭn jing Abner ană đah rơkơi Nêr, jing khua git gai ƀing ling tơhan Israel, laih anŭn Amasa ană đah rơkơi Yether, jing khua git gai ƀing ling tơhan ƀing Yudah. Sĭt dua gơñu anŭn yơh jing ƀing tơpă hơnơ̆ng hloh laih anŭn hơmâo kơnuih hiam hloh kơ Yôab. 33Kwưh kiăng tơlơi soh tuh drah gơñu anŭn dŏ ƀơi akŏ Yôab laih anŭn ƀơi ƀing ană tơčô ñu hlŏng lar. Samơ̆ rơkâo tơlơi rơnŭk rơno̱m Yahweh dŏ ƀơi Dawid laih anŭn ƀơi ană tơčô ñu, ƀơi sang anŏ ñu laih anŭn ƀơi rơnŭk git gai ñu hlŏng lar.”
34Tui anŭn, Benayah ană đah rơkơi Yehôyada nao pơdjai hĭ Yôab hăng đao amăng sang khăn Yahweh laih anŭn arăng dơ̱r hĭ ñu pơ anih ataih ƀiă mơ̆ng plei pla ñu pô yơh. 35Giŏng anŭn, pơtao brơi kơ Benayah ană đah rơkơi Yehôyada jing gah ngŏ kơ ƀing ling tơhan pơala kơ bruă Yôab laih anŭn Zadôk khua ngă yang prŏng hloh pơala kơ Abiathar khua ngă yang prŏng hloh yơh.
36Giŏng anŭn, pơtao Solomôn pơkiaŏ mơnuih nao iâu rai Simei pơ plei Yerusalaim. Solomôn laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Pơdơ̆ng bĕ sa boh sang kơ ih pô amăng plei Yerusalaim anai laih anŭn hơdip bĕ pơ anŭn, samơ̆ anăm nao pơ anih pă ôh. 37Ƀơi hrơi ih tơbiă đuaĭ laih anŭn găn dơnung Kidrôn kiăng kơ nao pơ anih pă, sĭt ih či djai yơh laih anŭn drah ih či dŏ ƀơi akŏ ih pô yơh.” 38Simei laĭ glaĭ kơ pơtao tui anai, “Tơlơi ih laĭ anŭn jing găl djơ̆ yơh. Ding kơna ih anai či ngă tui hăng tơlơi ih hơmâo pơtă yơh, Ơ pơtao khua kâo ăh.” Laih anŭn Simei dŏ amăng plei Yerusalaim sui biă mă yơh.
39Samơ̆ klâo thŭn mơ̆ng anŭn, dua čô hlŭn Simei tơbiă đuaĭ nao pơ pơtao Akis ană đah rơkơi Maakhah amăng plei pơnăng Gat laih anŭn arăng laĭ pơthâo kơ Simei kơ tơlơi anŭn tui anai, “Ƀing hlŭn ih hlak dŏ pơ plei pơnăng Gat.” 40Ƀơi mông anŭn mơtam, ñu prap pre aseh ñu kiăng kơ nao pơ Akis ƀơi anih plei Gat kiăng hơduah ƀing hlŭn ñu. Giŏng anŭn, Simei tơbiă nao mơ̆ng plei Yerusalaim laih anŭn hơduah ƀuh ba glaĭ ƀing hlŭn ñu anŭn mơ̆ng anih plei pơnăng Gat yơh.
41Tơdang Solomôn hơmư̆ Simei hơmâo tơbiă đuaĭ mơ̆ng plei Yerusalaim nao pơ plei Gat laih anŭn ñu hơmâo wơ̆t glaĭ laih, 42pơtao iâu rai Simei hăng laĭ kơ ñu tui anai, “Kâo brơi kơ ih ƀuăn laih hăng Yahweh laih anŭn khă laih tui anai, ‘Ƀơi hrơi pă ih tơbiă nao pơ anih pơkŏn dơ̆ng, sĭt ih či djai yơh.’ Hlak anŭn, ih laĭ kơ kâo tui anai, ‘Tơlơi ih laĭ anŭn jing găl djơ̆ yơh. Kâo či tui gưt yơh.’ 43Yua hơget ih ƀu djă̱ pioh ôh tơlơi ih ƀuăn rơ̆ng hăng Yahweh laih anŭn tui gưt tơlơi kâo pơđar kơ ih anŭn lĕ?”
44Pơtao ăt laĭ kơ Simei tui anai dơ̆ng mơ̆n, “Ih thâo laih amăng jua pơmĭn ih abih bang tơlơi sat ƀai ih ngă laih kơ ama kâo Dawid. Tui anŭn, Yahweh či kla glaĭ kơ ih yuakơ tơlơi sat ƀai ih ngă anŭn yơh. 45Samơ̆ pơtao Solomôn či hơmâo tơlơi bơni hiam laih anŭn rơnŭk git gai pơtao Dawid či dŏ kơjăp ƀơi anăp Yahweh hlŏng lar yơh.”
46Giŏng anŭn, pơtao pơkiaŏ Benayah nao kiăng kơ pơdjai hĭ Simei. Tui anŭn, ñu tơbiă nao pơdjai hĭ Simei hăng đao yơh. Tui anŭn yơh, Yahweh pơkơjăp lŏn čar ƀing Israel amăng tơngan Solomôn.