8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

1 Bấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành của Đa-vít, tức là Si-ôn. 2 Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn. 3 Khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Đức Giê-hô-va, 4 dời đi luôn với Đền tạm và các khí dụng thánh ở trong Đền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó lên.
5 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được. 6 Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7 Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
10 Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thánh, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va, 11 đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va.
12 Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt. 13 Hỡi Đức Chúa Trời! Tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời.
14 Đoạn, vua xây mặt lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 15 Người nói rằng:
 Đáng khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng:
16 Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta. 17 Vả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18 Nhưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải; 19 song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta. 20 Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
22 Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng:
23 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp nầy, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhân từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa. 24 Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay. 25 Vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu. 26 Hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi.
27 Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất nầy chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất! 28 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa, đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay. 29 Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, --- đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi nầy mà cầu. 30 Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi nầy mà khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
31 Khi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt ai đó phải thề, nếu người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền nầy, 32 thì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy theo sự công bình của người.
33 Khi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ thù nghịch đánh được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Chúa trong đền nầy, 34 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35 Nếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ, 36 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37 Khi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật bịnh gì; 38 nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền nầy, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì, 39 thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi, báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người), 40 để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
41 Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến 42 (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà nầy, 43 xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa; để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền nầy mà tôi đã xây cất.
44 Khi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài, 45 thì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực quyền lợi cho họ.
46 Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần, --- 47 ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng: “Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;” --- 48 nhược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, --- 49 thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ; 50 tha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ, 51 vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt.
52 Nguyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa. 53 Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô.
54 Khi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin nầy xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời. 55 Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng:
56 Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm. 57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi; 58 nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng tôi. 59 Ước gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên; 60 hầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác. 61 Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay.
62 Vua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. 63 Sa-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền của Đức Giê-hô-va là như vậy. 64 Trong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Đức Giê-hô-va là nhỏ quá, đựng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân không đặng.
65 Trong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cọng mười bốn ngày. 66 Ngày thứ tám, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.

8

Noau Dững Amut Hĩp Parnai Parkhán

1Chơ puo Sa-lamôn arô máh cũai sốt tễ dũ tỗp, dũ sâu, cớp dũ dống sũ tễ tỗp I-sarel, yỗn toâq rôm pỡ vil Yaru-salem, dŏq dững achu Hĩp Parnai Parkhán tễ vil Si-ôn la Vil Davĩt, cớp dững amut dŏq tâng Dống Sang Toâr. 2Nheq tữh tỗp alới toâq rôm parnơi tâng tangái noau táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh tâng casâi tapul la casâi E-tha-nim. 3-4Tữ máh cũai sốt toâq rôm dũ chơ, máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ dững Hĩp Parnai Parkhán, dếh Dống Sang Aroâiq, cớp máh crơng tâc tâng dống sang ki, chơ amut dŏq tâng Dống Sang Toâr. 5Puo Sa-lamôn cớp máh cũai proai I-sarel toâq rôm choâng moat Hĩp Parnai Parkhán, cớp alới chiau sang cữu cớp ntroŏq sa‑ữi lứq toau tỡ rơi ngih noâng. 6Chơ máh cũai tễng rit sang crang Hĩp Parnai Parkhán amut tâng Dống Sang Toâr, cớp dững dŏq tâng Ntốq Yiang Sursĩ Ỡt pưn khlap chê-rup. 7Khlap chê-rup paliang aloŏh acrúq Hĩp Parnai Parkhán cớp tong crang. 8Tong crang ki cuti lứq; cũai aléq tayứng coah moat Ntốq Tễng Rit, ki bữn hữm pứp tong ki. Ma khân tapoang nhêng tễ coah tiah, ki tỡ bữn hữm. (Tong crang ki noâng níc toau toâq tangái nâi.) 9Tâng clống Hĩp Parnai Parkhán bữn ống bar khlễc tamáu Môi-se khoiq chóq dŏq bo alới ỡt pỡ cóh Si-nai, la ntốq Yiang Sursĩ yỗn santoiq parkhán pỡ cũai proai I-sarel, bo tỗp alới mbỡiq loŏh tễ cruang Ê-yip-tô.
10Toâq máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ ntôm loŏh tễ Ntốq Tễng Rit, bo ki toâp bữn moang ramứl cadớp nheq Dống Sang Toâr, 11cớp tỗp alới tỡ têq pỡq táq ranáq ntrớu noâng, yuaq bữn ang‑ữr tễ Yiang Sursĩ aclaq chũop nheq dống sang. 12Chơ puo Sa-lamôn câu neq: “Ơ Yiang Sursĩ ơi! Anhia khoiq táq yỗn bữn moat mandang, ma anhia rưoh ỡt tâng ramứl cớp tâng ntốq canám. 13Cứq khoiq táq dống sang nêuq o lứq yỗn anhia ỡt, la ntốq yỗn anhia ỡt mantái níc.”

Sa-lamôn Pai Ŏ́c Bốn Yỗn Cũai Proai

14Bo cũai proai ỡt tayứng bân ntốq ki, puo Sa-lamôn to moat chu tỗp alới cớp sễq Yiang Sursĩ satốh ŏ́c bốn puan yỗn tỗp alới. 15Án pai neq: “Lứq khễn Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel; án yống níc parnai án khoiq ữq cớp puo Davĩt mpoaq cứq. Án pai chóq Davĩt neq: 16‘Noap tễ tangái cứq dững aloŏh cũai proai cứq tễ cruang Ê-yip-tô, cứq tỡ bữn rưoh vil léq yũah tâng cruang cutễq tỗp I-sarel dŏq táq dống sang cỡt ntốq sang toam cứq. Ma Davĩt ơi! Cứq khoiq rưoh mới yỗn cỡt sốt máh cũai proai cứq.’”
17Sa-lamôn pai ễn neq: “Davĩt, mpoaq cứq, khoiq aloŏh ngê ễ táq dống sang dŏq sang toam Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel. 18Ma Yiang Sursĩ pai chóq án neq: ‘Lứq o mới chanchớm ễ táq Dống Sang Toâr dŏq sang toam cứq. 19Ma mới la tỡ cỡn cũai táq dống sang yỗn cứq; con samiang mới toâp la cũai táq dống sang yỗn cứq.’
20“Sanua, Yiang Sursĩ táq ariang án khoiq par‑ữq cớp Davĩt mpoaq cứq dŏq cứq bữn cỡt puo tỗp I-sarel pláih mpoaq cứq; cớp cứq khoiq táq Dống Sang Toâr nâi dŏq sang toam Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel. 21Cứq khoiq táq tâng clống dống sang ntốq dŏq Hĩp Parnai Parkhán, cớp bar khlễc tamáu ca chĩc dŏq parnai Yiang Sursĩ parkhán cớp achúc achiac hái, bo Ncháu dững aloŏh tỗp alới tễ cruang Ê-yip-tô.”

Sa-lamôn Câu Sễq Tễ Yiang Sursĩ

22Choâng moat máh cũai proai, Sa-lamôn pỡq tayứng yáng moat prông sang, chơ án sacỡ atĩ achỗn 23cớp câu sễq neq: “Ơ Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel ơi! Lứq tỡ bữn yiang aléq ma ariang anhia tâng paloŏng tỡ la tâng cutễq nâi; anhia yống níc máh parnai anhia khoiq par‑ữq cớp cũai proai anhia, cớp anhia apáh ŏ́c ayooq chóq alới toâq alới trĩh anhia nheq tễ mứt pahỡm. 24Anhia yống níc máh parnai anhia par‑ữq cớp Davĩt mpoaq cứq. Tangái nâi dũ ŏ́c anhia par‑ữq lứq cỡt rapĩeiq. 25Ơ Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel ơi! Sanua, sễq anhia táq máh ŏ́c anhia khoiq par‑ữq cớp mpoaq cứq bo anhia atỡng án neq: ‘Lứq bữn níc muoi noaq cũai tễ tŏ́ng toiq mới bữn cỡt puo tỗp I-sarel, khân con châu mới táq puai máh phễp rit cứq ariang mới khoiq táq.’ 26Ngkíq, Yiang Sursĩ la Ncháu cũai I-sarel ơi! Sanua sễq anhia táq yỗn cỡt rapĩeiq dũ ramứh anhia khoiq ữq cớp puo Davĩt, mpoaq cứq, la cũai táq ranáq anhia.
27“Ơ Yiang Sursĩ ơi! Nŏ́q têq anhia ỡt tâng cốc cutễq nâi? Tam paloŏng la‑a lứq la noâng tỡ bữn dũ yỗn anhia ỡt, casỡn dống sang cứq táq nâi ễn. 28Yiang Sursĩ la Ncháu cứq ơi! Cứq la cũai táq ranáq anhia. Sễq anhia tamứng sưong santoiq cứq câu tangái nâi, cớp sễq anhia ta‑ỡi. 29Sễq anhia nhêng chu Dống Sang Toâr nâi cu sadâu tangái. Yuaq ntốq nâi cỡt ntốq anhia khoiq rưoh dŏq sang toam anhia, sễq anhia tamứng toâq cứq to moat chu Dống Sang Toâr cớp câu sễq anhia rachuai. 30Sễq anhia tamứng sưong santoiq cứq cớp máh cũai proai anhia câu sễq tễ anhia. Toâq tỗp hếq to moat chu dống sang nâi cớp câu sễq tễ anhia, sễq anhia tamứng tễ paloŏng, la ntốq anhia ỡt, cớp táh lôih yỗn tỗp hếq.
31“Toâq bữn noau tếq muoi noaq táq lôih chóq cũai canŏ́h, cớp noau dững án chu prông sang tâng Dống Sang Toâr nâi yỗn án thễ dũan pai án lứq tỡ bữn lôih, 32sễq anhia tamứng tễ pỡng paloŏng, cớp rasữq chuai máh cũai táq ranáq anhia. Sễq anhia yỗn cũai ca táq lôih roap tôt, ma acláh cũai ca tỡ bữn táq lôih.
33“Toâq proai anhia la cũai I-sarel cỡt pê chóq cũai par‑ũal, cỗ tian alới táq lôih chóq anhia, ma khân alới píh loah chu anhia cớp ngin kho sễq anhia táh lôih yỗn tỗp alới pỡ Dống Sang Toâr nâi, 34sễq anhia tamứng tễ paloŏng, cớp sễq anhia táh lôih yỗn máh cũai proai anhia la cũai I-sarel, cớp dững alới chu loah pỡ cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới.
35“Toâq anhia catáng dŏq dỡq mia tỡ yỗn mia sễng cỗ tian cũai proai anhia táq lôih chóq anhia, cớp khân alới to moat chu Dống Sang Toâr cớp ngin kho lôih, cớp ralêq cỡt mứt tamái, dếh câu sễq tễ anhia, 36sễq anhia tamứng tỗp alới, cớp táh lôih yỗn cũai táq ranáq anhia, la máh cũai proai I-sarel, cớp arĩen alới yỗn táq ống ranáq pĩeiq sâng. Ơ Yiang Sursĩ ơi! Sễq anhia yỗn dỡq mia sễng loah pỡ cloong cutễq anhia khoiq chiau yỗn alới ndỡm níc.
37“Toâq bữn ŏ́c panhieih khlac tâng cutễq nâi, tỡ la toâq ỗn, tỡ la máh sarnóh chóh cỡt rúng nheq cỗ tian cuyal phát hang lứq, tỡ la sampứh lam toâq talốh, tỡ la cũai par‑ũal ỡt crŏ́q lavíng vil, tỡ la cỡt rang‑ĩ tacóh, 38sễq anhia tamứng sưong santoiq tỗp alới câu sễq. Khân cũai aléq tễ tỗp I-sarel ma bữn mứt pahỡm túh ngua cớp sacỡ atĩ chu Dống Sang Toâr nâi toâq án câu sễq, 39sễq anhia tamứng tễ paloŏng la ntốq anhia ỡt. Sễq anhia táh lôih yỗn alới cớp rachuai tỗp alới. Ống anhia toâp dáng nheq tâng mứt pahỡm cũai chanchớm; sễq anhia táq chóq dũ náq cũai bữn roap puai loah ranáq alới táq. 40Táq ngkíq têq alới sa‑âm anhia mantái níc bo alới ỡt tâng cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới.
41-42“Toâq bữn cũai tễ cruang yơng tễ cruang I-sarel bữn sâng tễ ramứh ranoâng anhia cớp tễ ranáq toâr lứq anhia khoiq táq yỗn cũai proai anhia, chơ alới toâq rôm sang cớp câu sễq tễ anhia pỡ Dống Sang Toâr nâi tê, 43sễq anhia tamứng tễ paloŏng la ntốq anhia ỡt, cớp chuai alới, dŏq yỗn cũai chũop cốc cutễq nâi bữn dáng cớp yám noap anhia, machớng tỗp I-sarel la proai anhia tê. Chơ tỗp alới bữn dáng Dống Sang Toâr cứq khoiq táq la ntốq yỗn máh cũai toâq rôm sang toam anhia.
44“Toâq anhia ớn cũai proai anhia pỡq chíl cũai par‑ũal alới pỡ ntốq aléq alới ỡt, khân alới to moat chu vil anhia khoiq rưoh cớp chu Dống Sang Toâr cứq khoiq táq nâi, chơ câu sễq tễ anhia, 45sễq anhia tamứng tễ paloŏng sưong santoiq alới câu sễq, cớp rachuai alới yỗn chíl riap.
46“Toâq cũai proai anhia táq lôih chóq anhia (yuaq tỡ bữn noau ma tỡ bữn táq lôih), cớp anhia sâng cutâu mứt cớp chiau yỗn cũai par‑ũal chíl riap alới, cớp cỗp dững alới pỡ cruang canŏ́h yơng lứq, 47ma khân cũai proai anhia câu sễq loah tễ anhia tễ cruang ki, sễq anhia tamứng sưong santoiq alới. Khân tỗp alới lêq loah mứt pahỡm tamái, chơ ngin kho lôih tỗp alới khoiq táq chóq anhia, cớp pai: ‘Hếq la cũai ngian, cũai loâi lứq,’ sễq anhia tamứng sưong máh santoiq tỗp alới câu. 48Cớp khân tỗp alới píh loah chu anhia nheq tễ mứt pahỡm pỡ cruang cutễq alới ỡt ki, cớp alới to moat chu cruang cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới cớp chu vil anhia khoiq rưoh, cớp chu Dống Sang Toâr cứq khoiq táq yỗn anhia, 49sễq anhia tamứng tễ paloŏng, la ntốq anhia ỡt, la sưong santoiq tỗp alới câu. Sễq anhia sarũiq táq cớp táh lôih yỗn alới. 50Sễq anhia táh nheq máh lôih cớp ranáq sâuq alới khoiq táq chóq anhia, cớp sễq anhia yỗn máh cũai par‑ũal alới sâng sarũiq táq loah alới tê. 51Tỗp alới cỡt cũai proai anhia, la cũai anhia khoiq dững aloŏh tễ cruang Ê-yip-tô la ntốq samoât lo sarốc tac.
52“Ơ Yiang Sursĩ la Ncháu hếq ơi! Sễq anhia nhêng chu cũai proai I-sarel cớp puo tỗp alới na mứt pahỡm sarũiq táq alới mantái níc; toâq alới câu sễq anhia rachuai, ki sễq anhia tamứng santoiq alới câu sễq. 53Tễ nheq máh tỗp cũai tâng cốc cutễq nâi anhia khoiq rưoh tỗp alới dŏq cỡt proai anhia, machớng anhia khoiq atỡng na Môi-se, la cũai táq ranáq anhia, bo anhia la Ncháu Nheq Tữh Cũai dững aloŏh achúc achiac hếq tễ cruang Ê-yip-tô.”

Sa-lamôn Atỡng Ŏ́c Parsốt

54Toâq moâm puo Sa-lamôn câu sễq tễ Yiang Sursĩ, chơ án yuor tayứng yáng moat prông sang bân ntốq án ỡt sacốh racớl cớp sacỡ atĩ. 55Án câu sễq ŏ́c bốn yỗn máh cũai I-sarel tâng ntốq ki na sưong casang. Án pai neq: 56“Lứq khễn Yiang Sursĩ ca rachuai máh cũai proai án yỗn bữn ỡt ien khễ, ĩn án khoiq par‑ữq dŏq chơ. Án yống níc máh santoiq án khoiq par‑ữq na Môi-se, la cũai táq ranáq án. 57Sễq Yiang Sursĩ la Ncháu hếq, ỡt cớp tỗp hếq, machớng án khoiq ỡt cớp achúc achiac hếq chơ. Sễq án chỗi táh hếq. 58Sễq Yiang Sursĩ chuai tỗp hếq yỗn têq trĩh níc án, yỗn hếq tamoong dŏq táq ranáq án yỗn pĩeiq lứq; cớp dŏq hếq yống níc phễp rit, dếh santoiq án khoiq patâp yỗn achúc achiac hếq tễ nhũang chơ. 59Sễq Yiang Sursĩ, la Ncháu hếq, sanhữ níc máh santoiq cứq khoiq câu sễq nâi! Sễq án sâng sarũiq chóq cũai proai I-sarel cớp puo alới, cớp yỗn máh ŏ́c alới cóq bữn cu rangái. 60Ngkíq máh cũai proai chũop cruang cutễq nâi têq dáng ống Yiang Sursĩ toâp la Ncháu, tỡ cỡn yiang canŏ́h. 61Tễ nâi chumát, sễq nheq tữh anhia tanoang tapứng níc chóq Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp hái na trĩh phễp rit án cớp dũ ŏ́c án khoiq patâp, ariang anhia táq puai tâng tangái nâi.”

Chiau Sang Dống Sang Toâr

62Chơ puo Sa-lamôn cớp dũ náq cũai I-sarel chiau sang máh crơng yỗn Yiang Sursĩ. 63Sa-lamôn kiac ntroŏq 22,000 lám, cớp cữu 120,000 lám, chiau sang dŏq cỡt ratoi. Puo Sa-lamôn cớp nheq tữh cũai proai chiau sang Dống Sang Toâr ki yỗn Yiang Sursĩ. 64Tâng tangái ki Sa-lamôn chiau sang dếh nchŏh yáng moat Dống Sang Toâr. Pỡ ntốq ki án bốh charán dŏq chiau sang, chiau sang máh thữ racáu, cớp chiau sang nsễng charán dŏq cỡt crơng sang yỗn cỡt ratoi. Án táq ngkíq yuaq prông sang sapoan án khoiq táq tỡ bữn toâr dũ yỗn dŏq máh charán ễ bốh chiau sang, máh thữ racáu, cớp máh nsễng dŏq cỡt ratoi.
65Tâng tapul tangái puo Sa-lamôn cớp máh cũai proai I-sarel táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh. Máh cũai toâq rôm clứng lứq, án ca toâq tễ parsốt cruang coah angia pỡng la ntốq raláp Hamat, cớp tễ raloan cruang coah angia pưn, la cruang Ê-yip-tô. 66Tâng tangái tacual puo Sa-lamôn yỗn máh cũai proai píh chu loah pỡ dống alới bữm. Dũ náq tỗp alới khễn puo Sa-lamôn; chơ píh chu bũi óh lứq cỗ Yiang Sursĩ khoiq yỗn ŏ́c bốn pỡ puo Davĩt, la cũai táq ranáq án, dếh máh cũai proai I-sarel.