8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

1 Bấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành của Đa-vít, tức là Si-ôn. 2 Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn. 3 Khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Đức Giê-hô-va, 4 dời đi luôn với Đền tạm và các khí dụng thánh ở trong Đền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó lên.
5 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được. 6 Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7 Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
10 Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thánh, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va, 11 đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va.
12 Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt. 13 Hỡi Đức Chúa Trời! Tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời.
14 Đoạn, vua xây mặt lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 15 Người nói rằng:
 Đáng khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng:
16 Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta. 17 Vả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18 Nhưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải; 19 song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta. 20 Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
22 Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng:
23 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp nầy, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhân từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa. 24 Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay. 25 Vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu. 26 Hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi.
27 Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất nầy chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất! 28 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa, đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay. 29 Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, --- đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi nầy mà cầu. 30 Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi nầy mà khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
31 Khi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt ai đó phải thề, nếu người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền nầy, 32 thì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy theo sự công bình của người.
33 Khi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ thù nghịch đánh được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Chúa trong đền nầy, 34 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35 Nếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ, 36 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37 Khi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật bịnh gì; 38 nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền nầy, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì, 39 thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi, báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người), 40 để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
41 Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến 42 (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà nầy, 43 xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa; để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền nầy mà tôi đã xây cất.
44 Khi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài, 45 thì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực quyền lợi cho họ.
46 Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần, --- 47 ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng: “Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;” --- 48 nhược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, --- 49 thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ; 50 tha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ, 51 vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt.
52 Nguyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa. 53 Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô.
54 Khi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin nầy xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời. 55 Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng:
56 Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm. 57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi; 58 nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng tôi. 59 Ước gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên; 60 hầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác. 61 Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay.
62 Vua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. 63 Sa-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền của Đức Giê-hô-va là như vậy. 64 Trong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Đức Giê-hô-va là nhỏ quá, đựng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân không đặng.
65 Trong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cọng mười bốn ngày. 66 Ngày thứ tám, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.

8

Xalaumoo coj Vaajtswv lub swb xaab lug rua huv lub tuam tsev

(2VKk. 5:2-6:2)

1Mas Xalaumoo hu Yixayee cov kev txwj quas laug, yog txhua tug kws ua hlub huv txhua xeem hab txhua cum tug thawj tuaj txoos ua ke rua huv Yeluxalee ntawm vaajntxwv Xalaumoo lub xubndag es yuav moog coj Yawmsaub lub swb xaab sws cog lug tawm huv Tavi lub nroog kws yog lub roob Xi‑oo lug. 2Mas taag nrho Yixayee cov txwvneej tuaj txoos ua ke ntawm vaajntxwv Xalaumoo lub xubndag rua lub swjhawm kws ua kevcai paam noj haus rua lub hli Ethani kws yog lub xyaa hli. 3Cov Yixayee tej kev txwj quas laug suavdawg tuaj txhwj mas cov pov thawj txawm nqaa lub swb xaab. 4Puab coj Yawmsaub lub swb xaab hab lub tsev ntaub sws ntswb hab tej pestwj dawb huv huvsw kws nyob huv lub tsev ntaub moog. Tej nuav cov pov thawj hab cov Levi yog cov kws coj lug. 5Vaajntxwv Xalaumoo hab ib tsoom Yixayee suavdawg kws tuaj txoos ua ke rua ntawm nwg xubndag kuj nrug nwg nyob ntawm lub swb xaab hab muab yaaj muab nyuj coob kawg lug tua xyeem suav tsw txheeb le. 6Cov pov thawj txhad coj Yawmsaub lub swb xaab sws cog lug moog rua ntawm lub chaw kws npaaj ca huv lub tuam tsev chaav saab huv kws yog chaav dawb huv kawg nkaus, mas muab tso rua huv qaab ob tug Khelunpee phob kauj tis. 7Ob tug Khelunpee hov nthuav kauj tis rua sau lub chaw kws txawb lub swb xaab mas txhad roog lub swb xaab hab ob tug laag kwv. 8Ob tug laag hov ntev heev, mas yog nyob huv chaav dawb huv mas pum ob tug tw laag tshwm huv chaav saab huv tuaj, kuas yog nyob saab nrau mas tsw pum. Mas ob tug laag hov tseed nyob hov ntawd txug naj nub nwgnuav. 9Tsw muaj daabtsw nyob huv lub swb xaab le tsuas yog muaj ob daim txag zeb kws Mauxe muab tso rua huv ntawm lub roob Haule kws yog lub chaw kws Yawmsaub nrug cov Yixayee sws cog lug tseg rua thaus puab tawm huv Iyi tebchaws lug. 10Thaus cov pov thawj tawm huv chaav dawb huv lug, ib tauv fuab txawm lug puv nkaus Yawmsaub lub tuam tsev. 11Mas cov pov thawj txhad sawv ntsug ua num tsw tau vem tauv fuab hov, tsua qhov Yawmsaub tug fwjchim ci ntsaa quas ab puv nkaus Yawmsaub lub tuam tsev.

Xalaumoo xyeem pub lub tuam tsev rua Vaajtswv

(2VKk. 6:3-11)

12Tes Xalaumoo txawm has tas, “Yawmsaub tau has tas nwg yuav nyob huv qhov tsaus ntuj quas nti. 13Kuv tau ua lub tuam tsev zoo heev rua koj, yog lub chaw rua koj nyob moog ib txhws le.”
14Mas vaajntxwv tig lug foom koob moov rua ib tsoom Yixayee suavdawg rua thaus puab suavdawg tseed sawv ntsug. 15Nwg has tas, “Ca le qhuas Yawmsaub kws yog cov Yixayee tug Vaajtswv kws txhais teg ua tau tav lawv le tej lug kws cog tseg rua kuv txwv Tavi lawd, has tas, 16‘Txwj nub kws kuv coj kuv haiv tuabneeg Yixayee tawm huv Iyi tebchaws lug kuv tsw tau xaiv ib lub moos twg huv cov xeem Yixayee suavdawg ca ua lub tuam tsev rua kuv lub npe nyob, tassws kuv tau xaiv Tavi ua tug kaav kuv haiv tuabneeg Yixayee.’ 17Kuv txwv Tavi tau npaaj sab ca tas yuav ua lub tuam tsev rua Yawmsaub kws yog Yixayee tug Vaajtswv lub npe nyob. 18Tassws Yawmsaub has rua kuv txwv Tavi tas, ‘Qhov kws koj npaaj sab yuav ua lub tuam tsev rua kuv lub npe nyob hov koj tub ua zoo lawm. 19Tassws koj tsw yog tug kws yuav ua lub tuam tsev. Koj tug tub kws yuav yug lug yog tug kws yuav ua lub tuam tsev rua kuv lub npe nyob.’ 20Nwgnuav Yawmsaub tub ua rua tej lug kws nwg cog tseg hov tav lawm. Tsua qhov kuv tau sawv lug nyob kuv txwv Tavi chaw hab nyob sau cov Yixayee lub zwm txwv lawv le Yawmsaub tau cog lug tseg hab kuv tau ua lub tuam tsev rua Yawmsaub kws yog cov Yixayee tug Vaajtswv lub npe nyob. 21Hab hov ntawd kuv tau npaaj chaw txawb lub swb xaab kws ntim Yawmsaub tej lug cog tseg kws nwg cog rua peb tej laug rua thaus nwg coj puab tawm huv Iyi tebchaws lug.”

Xalaumoo tej lug thov

(2VKk. 6:12-42)

22Mas Xalaumoo sawv ntsug ntawm Yawmsaub lub thaaj xyeem saab xubndag taab meeg ib tsoom Yixayee suavdawg, hab nwg tsaa hlo nwg ob txhais teg rua sau ntuj, 23mas has tas, “Au Yawmsaub kws yog Yixayee tug Vaajtswv, yeej tsw muaj ib tug timtswv twg zoo cuag le koj tsw has sau qaum ntuj hab huv nplajteb. Koj ua lawv le koj cog lug tseg hab koj ua txujkev hlub kws ruaj khov tshwm rua koj cov qhev kws ua puab lub neej lawv le koj txujkev kawg sab kawg ntsws. 24Koj tau ua rua kuv txwv Tavi kws yog koj tug qhev lawv le tej lug kws koj tub cog tseg rua nwg lawd. Koj lub qhov ncauj tau has hab koj txhais teg ua tav rua nub nua. 25Au Yawmsaub kws yog Yixayee tug Vaajtswv, yog le ntawd nwgnuav thov koj ua lawv le tej lug kws koj tau cog tseg rua kuv txwv Tavi kws yog koj tug qhev has tas, ‘Yog koj tej tub ki ceev faaj rua txhua txujkev kws puab ua hab ua puab lub neej lawv le kuv txujkev ib yaam le koj, mas tsw muaj ib nub twg kws koj caaj ceg yuav tu ncua tug txwvneej kws nyob sau cov Yixayee lub zwm txwv taab meeg kuv.’ 26Au Yixayee tug Vaajtswv, tej lug kws koj tau has tseg rua kuv txwv Tavi kws yog koj tug qhev mas thov koj ua kuas tav.
27“Mas Vaajtswv yuav nyob huv lub nplajteb lov? Saib maj, txawm yog sau nruab ntug hab nruab ntug kws sab kawg nkaus los tub tsw txaus rua koj nyob. Mas lub tuam tsev kws kuv ua nuav yimfuab tsw txaus rua koj nyob. 28Thov koj saib rua koj tug qhev tej lug taij lug thov nuav. Au Yawmsaub kws yog kuv tug Vaajtswv, thov koj noog kuv lub suab hab tej lug taij thov kws nub nua koj tug qhev thov ntawm koj xubndag nuav, 29sub koj lub qhov muag txhad saib ntsoov lub tuam tsev nuav nruab nub mo ntuj, yog lub chaw kws koj has tas, ‘Kuv lub npe yuav nyob hov ntawd,’ koj txhad le noog tej lug thov kws koj tug qhev tig ndag rua lub chaw nuav thov. 30Hab thov koj noog koj tug qhev hab koj haiv tuabneeg Yixayee tej lug taij thov rua thaus puab tig ndag rua lub chaw nuav thov. Koj nyob sau ntuj ceeb tsheej kws yog koj lub chaw nyob mas thov koj noog. Thaus koj nov lawd thov koj zaam txem.
31“Yog leejtwg tau ua txhum rua nwg kwvtij zej zog es yuav tsum twv tsawm, hab nwg tuaj twv tsawm ntawm koj lub thaaj xyeem huv lub tuam tsev nuav, 32mas thov koj nyob sau ntuj noog hab thov koj tu. Thov koj txav txem rua koj cov qhev ob tog, rau txem rua tug kws ua txhum hab coj tej kws nwg ua hov rov poob rua sau nwg taubhau. Hab tug kws tsw txhum mas thov koj tsaa kuas nwg muaj cai pauj qhov kws nwg ua ncaaj nceeg.
33“Thaus koj haiv tuabneeg Yixayee swb puab cov yeeb ncuab tsua qhov puab tau ua txhum rua koj, mas yog puab tig rov lug cuag koj hab leeg yuav koj lub npe hab taij thov koj huv lub tuam tsev nuav, 34tes thov koj nyob sau ntuj noog hab zaam koj haiv tuabneeg Yixayee lub txem hab coj puab rov lug rua huv lub tebchaws kws koj tau pub rua puab tej laug nuav.
35“Thaus rooj ntug kaw hab tsw muaj naag lug vem yog puab tau ua txhum rua koj, mas yog puab tig ndag rua lub chaw nuav thov hab leeg yuav koj lub npe hab tig ntawm puab tej kev txhum rua thaus koj tswm txom puab, 36tes thov koj nyob sau ntuj noog hab thov koj zaam koj cov qhev kws yog koj haiv tuabneeg Yixayee lub txem. Thov koj qha txujkev zoo kws tswm nyog puab taug rua puab, hab thov koj pub naag lug rua huv koj lub tebchaws kws koj tau pub ua qub txeeg qub teg rua koj haiv tuabneeg.
37“Yog lub tebchaws raug kev tshaib nqhes, yog muaj mob kis lossws qoob loos nce mob lossws tuaj pwm lossws muaj kooj muaj kaab ntswg, lossws puab cov yeeb ncuab tuaj vej puab huv lub moos twg, mas txawm yog muaj kev mob phem yaam twg los kev mob kev nkeeg yaam twg tshwm tuaj, 38hab txawm yog ib tug twg lossws koj haiv tuabneeg Yixayee huvsw taij le caag hab thov le caag vem qhov kws nyag paub nyag kev txom nyem hab nyag tej kev nyuaj sab es tsaa teg ncaaj rua lub tuam tsev nuav, 39tes thov koj nyob sau ntuj kws yog koj lub chaw nyob noog hab zaam txem hab tu rua puab hab ua rua txhua tug kws koj tub paub huv puab lub sab, lawv le puab tau ua huvsw. Tsua qhov koj, tsuas yog koj tuab leeg xwb txhad paub huv tuabneeg lub sab huvsw. 40Sub puab txhad fwm hab paub ntshai koj txhua nub txhua lub swjhawm kws puab nyob huv lub tebchaws kws koj tau pub rua peb tej laug.
41“Ib yaam nkaus le ntawd, thaus lwm haiv tuabneeg ib tug twg kws tsw yog koj haiv tuabneeg Yixayee tuaj lwm lub tebchaws deb tuaj vem yog nov txug koj lub npe, 42vem yog puab nov txug koj lub npe kws luj kawg hab koj txhais teg kws muaj fwjchim hab koj txhais npaab kws tsaa hlo, mas thaus puab tuaj tig ndag rua lub tuam tsev nuav thov, 43tes thov koj nyob sau ntuj kws yog koj lub chaw nyob noog hab thov koj ua lawv le txhua yaam kws lwm haiv tuabneeg tau thov rua koj, sub txhua haiv tuabneeg huv nplajteb txhad paub koj lub npe hab ntshai hab fwm koj yaam nkaus le koj haiv tuabneeg Yixayee, hab puab txhad paub tas lub tuam tsev kws kuv ua nuav puab hu lawv le koj lub npe.
44“Yog koj haiv tuabneeg tawm moog ua rog rua puab cov yeeb ncuab rua txujkev twg kws koj khaiv puab moog, es puab tig ndag thov ncaaj rua lub nroog nuav kws koj tau xaiv ca hab tig ndag thov ncaaj rua lub tuam tsev kws kuv tau ua rua koj lub npe nyob, 45mas thov koj nyob sau ntuj noog puab tej lug taij lug thov hab tuav puab txujcai.
46“Yog puab ua txhum rua koj, vem tsw muaj ib tug twg kws tsw ua txhum, es koj npau tawg rua puab, hab muab puab cob rua yeeb ncuab puab txhad raug nteg coj moog rua yeeb ncuab lub tebchaws tsw has deb los ze, 47yog puab lub sab xaam pum puab tej kev txhum rua huv lub tebchaws kws puab raug nteg coj moog hov hab ntxeev dua sab hab taij thov koj huv lub tebchaws kws puab nyob hov has tas, ‘Peb tau ua txhum hab ua tsw ncaaj hab ua phem kawg le,’ 48yog puab ntxeev dua sab kawg sab kawg ntsws kawg plaab plaw tswvyim huv lub tebchaws kws puab raug yeeb ncuab nteg coj moog nyob hov, hab yog puab tig ndag rua puab lub tebchaws kws koj pub rua puab tej laug thov koj hab tig ndag rua lub nroog kws koj tau xaiv ca hab lub tuam tsev kws kuv ua rua koj lub npe nyob nuav, 49mas thov koj nyob sau ntuj kws yog koj lub chaw nyob noog puab tej lug taij lug thov hab tuav puab txujcai. 50Hab zaam koj haiv tuabneeg lub txem kws puab tau ua txhum rua koj, hab zaam puab tej kev faav xeeb kws puab tau tawm tsaam koj, hab pub cov kws nteg puab coj moog hov khuvleej puab, puab txhad tau txais kev khuvleej. 51Puab yog koj haiv tuabneeg hab yog koj le qub txeeg qub teg kws koj coj tawm huv Iyi tebchaws lug, yog tawm huv cub thee hlawv hlau lug. 52Thov tsaa koj lub qhov muag saib rua koj tug tub qhe tej lug taij thov hab saib rua koj haiv tuabneeg Yixayee tej lug taij thov, es tig ntsej noog rua thaus puab hu thov koj. 53Au Vaajtswv Yawmsaub, koj cais puab tawm huv ib tsoom tuabneeg huv nplajteb lug ua koj le qub txeeg qub teg lawv le koj has rua koj tug qhev Mauxe rua thaus koj coj peb tej laug tawm huv Iyi tebchaws lug.”
54Thaus Xalaumoo thov hab has tej lug taij nuav huvsw rua Yawmsaub taag lawd, nwg txawm sawv tseeg ntawm Yawmsaub lub thaaj xyeem kws nwg tau txhus caug hab tsaa teg thov rua sau ntuj. 55Nwg sawv ntsug hab foom koob moov rua ib tsoom Yixayee suavdawg nrov nrov has tas,
56“Qhuas Yawmsaub kws pub nwg haiv tuabneeg Yixayee tau su lawv le nwg cog lug ca txhua yaam. Nwg tej lug cog tseg zoo txhua lu kws nwg kuas nwg tug qhev Mauxe has hov tsw poob ib lus le. 57Thov peb tug Vaajtswv Yawmsaub nrug nraim peb ib yaam le nwg nrug nraim peb tej laug. Thov nwg tsw xob ncaim peb hab tso peb tseg hlo le. 58Thov nwg ua kuas peb lub sab tig lug cuag nwg, peb txhad ua peb lub neej lawv le nwg txujkev hab tuav rawv nwg tej lug nkaw hab nwg tej kaab ke hab nwg tej kevcai kws nwg has ca rua peb tej laug. 59Thov ca kuv tej lug kws kuv taij thov ntawm Yawmsaub lub xubndag nuav nyob ze peb tug Vaajtswv Yawmsaub nruab nub mo ntuj. Hab thov nwg tuav kuv kws yog nwg tug qhev txujcai hab nwg haiv tuabneeg Yixayee txujcai kuas ruaj khov, lawv le naj nub cheem tsum, 60sub ib tsoom tuabneeg huv nplajteb txhad paub tas Yawmsaub yog Vaajtswv, tsw muaj dua lwm tug le lawm. 61Yog le nuav mej lub sab ca le xwb hlo rua Yawmsaub kws yog peb tug Vaajtswv, es ua mej lub neej lawv le nwg tej kaab ke hab tuav rawv nwg tej lug nkaw ib yaam le naj nub nwgnuav mej ua.”

Muab lub tuam tsev xyeem rua Yawmsaub

(2VKk. 7:4-10)

62Mas vaajntxwv hab cov Yixayee suavdawg kws nrug nwg ua ke tua tsaj xyeem rua ntawm Yawmsaub lub xubndag. 63Xalaumoo muab nyuj 22,000 tug hab yaaj 120,000 tug tua xyeem ua kevcai sws raug zoo rua Yawmsaub. Vaajntxwv hab cov pejxeem txhad muab lub tuam tsev xyeem pub rua Yawmsaub le nuav. 64Tuab nub hov vaajntxwv ua kevcai tu lub plawv tshaav puam kws ncaaj ntawm lub qhov rooj tuam tsev kuas dawb huv. Mas nwg muab tsaj ua kevcai hlawv huvsw xyeem hab muab tej kws ua kevcai xyeem qoob loos hab muab cov npluag roj ua kevcai xyeem sws raug zoo rua hov ntawd, vem lub thaaj tooj lab kws nyob ntawm Yawmsaub lub xubndag tsw txaus tso tej kws ua kevcai hlawv huvsw xyeem hab tej kws ua kevcai xyeem qoob loos hab tej npluag roj kws ua kevcai xyeem sws raug zoo.
65Zag hov Xalaumoo hab ib tsoom Yixayee suavdawg ua kevcai paam noj haus xyaa nub. Muaj tuabneeg coob heev tuaj txoos ua ke txwj ntawm txujkev kws moog rua lub moos Hama moog txug ncua tug dej Iyi. 66Nub kws yim nwg tso cov pejxeem rov moog. Puab foom koob moov rua vaajntxwv hab rov qaab moog tsev. Puab zoo sab hab xyiv faab vem yog tej kev zoo kws Yawmsaub ua tshwm lug rua nwg tug qhev Tavi hab rua Yawmsaub haiv tuabneeg Yixayee.