Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn
1 Bấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành của Đa-vít, tức là Si-ôn.⚓2 Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn.⚓3 Khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Đức Giê-hô-va, 4 dời đi luôn với Đền tạm và các khí dụng thánh ở trong Đền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó lên. 5 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được. 6 Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7 Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.⚓ 10 Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thánh, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va,⚓11 đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va. 12 Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt.⚓13 Hỡi Đức Chúa Trời! Tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời. 14 Đoạn, vua xây mặt lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 15 Người nói rằng: Đáng khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng: 16 Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta.⚓17 Vả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.⚓18 Nhưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải; 19 song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta.⚓20 Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô. 22 Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng: 23 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp nầy, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhân từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa. 24 Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay. 25 Vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu.⚓26 Hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi. 27 Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất nầy chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất!⚓28 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa, đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay. 29 Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, --- đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi nầy mà cầu.⚓30 Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi nầy mà khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho. 31 Khi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt ai đó phải thề, nếu người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền nầy, 32 thì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy theo sự công bình của người. 33 Khi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ thù nghịch đánh được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Chúa trong đền nầy, 34 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ. 35 Nếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ, 36 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp. 37 Khi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật bịnh gì; 38 nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền nầy, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì, 39 thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi, báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người), 40 để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi. 41 Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến 42 (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà nầy, 43 xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa; để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền nầy mà tôi đã xây cất. 44 Khi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài, 45 thì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực quyền lợi cho họ. 46 Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần, --- 47 ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng: “Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;” --- 48 nhược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, --- 49 thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ; 50 tha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ, 51 vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt. 52 Nguyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa. 53 Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô. 54 Khi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin nầy xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời. 55 Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng: 56 Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm.⚓57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi; 58 nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng tôi. 59 Ước gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên; 60 hầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác. 61 Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay. 62 Vua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. 63 Sa-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền của Đức Giê-hô-va là như vậy. 64 Trong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Đức Giê-hô-va là nhỏ quá, đựng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân không đặng. 65 Trong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cọng mười bốn ngày. 66 Ngày thứ tám⚓, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.
8
Tơlơi Ba Mŭt Hip Tơlơi Pơgop Amăng Sang Yang Yahweh
(2 Hră Ruai 5:2–6:2)
1Tơdơi kơ anŭn, pơtao Solomôn iâu pơƀut rai ƀơi anăp ñu amăng plei phŭn Yerusalaim abih bang ƀing kŏng tha Israel, abih bang ƀing djă̱ akŏ ƀing kơnung djuai laih anŭn ƀing ba akŏ ƀing djuai Israel, kiăng kơ ba mŭt amăng sang yang Yahweh hip tơlơi pơgop Yahweh mơ̆ng anih Ziôn, jing mơ̆ng Plei Dawid anŭn.⚓2Tui anŭn, ƀơi bơyan phet amăng blan Ethanim, jing blan tal tơjuh, abih bang ƀing đah rơkơi Israel rai hrŏm hơbĭt hăng pơtao Solomôn yơh.⚓ 3Tơdang abih bang ƀing kŏng tha Israel hơmâo rai laih, ƀing khua ngă yang yŏng đĭ hip tơlơi pơgop Yahweh, 4laih anŭn ƀing gơñu ba đĭ hip anŭn laih anŭn Sang Khăn Pơjơnum hrŏm hăng abih bang dram gơnam rơgoh hiam pioh yua amăng sang anŭn. Ƀing khua ngă yang laih anŭn ƀing Lêwi pơkŏn čơkŭng đĭ khul gơnam anŭn truh pơ sang yang Yahweh. 5Hlak anŭn, pơtao Solomôn wơ̆t hăng abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ hrŏm hăng ñu dŏ dơ̆ng ƀơi anăp hip, pơdjai hĭ khul triu laih anŭn khul rơmô lu biă mă kiăng kơ ngă yang, tơl ƀing gơñu ƀu dưi tĭng yap ôh. 6Giŏng anŭn, ƀing khua ngă yang ba mŭt hip tơlơi pơgop Yahweh pơ sang yang laih anŭn pioh amăng gah lăm Anih Rơgoh Hiam Hloh, jing gah yŭ kơ čăng dua boh rup čerub. 7Dua boh rup čerub anŭn blang čăng gơñu gah ngŏ kơ hip jing go̱m hĭ hip anŭn wơ̆t hăng dua ƀĕ gai čơkŭng hip mơ̆n. 8Khul gai čơkŭng anŭn rơyong ñu glông biă mă tơl arăng dưi ƀuh črăn rơnuč mơ̆ng Anih Rơgoh Hiam, jing anih gah anăp kơ Anih Rơgoh Hiam Hloh. Samơ̆ arăng ƀu thâo ƀuh ôh mơ̆ng anih pơkŏn gah rơngiao kơ Anih Rơgoh Hiam. Sĭt khul gai čơkŭng anŭn ăt dŏ pơ anŭn mơ̆n tă anai.⚓9Ƀơi mông anŭn, ƀu hơmâo gơnam hơget ôh amăng hip anŭn rơngiao kơ dua boh hơnăl boh pơtâo⚓ Môseh hơmâo pioh mŭt laih amăng anŭn ƀơi anih Hôrêb. Hôrêb jing anih Yahweh pơjing laih tơlơi pơgop hăng ƀing Israel tơdơi kơ ƀing gơñu tơbiă laih mơ̆ng lŏn čar Êjip. 10Tơdang ƀing khua ngă yang tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng Anih Rơgoh Hiam, hơmâo kơthul pơbă hĭ sang yang Yahweh.⚓11Tui anŭn, ƀing khua ngă yang ƀu thâo mŭt glaĭ mă bruă ngă yang gơñu ôh yuakơ hơmâo kơthul đơi, anŭn jing yuakơ tơlơi ang yang Yahweh pơbă hĭ sang yang Ñu jing hĭ bơngač biă mă yơh. 12Giŏng anŭn, Solomôn laĭ tui anai, “Ơ Yahweh ăh, Ih hơmâo pơtă laih, Ih či dŏ amăng anih kơthul kơnăm.⚓13Kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih sa boh sang yang guh kơang kơ Ih, jing anih kơ Ih dŏ hlŏng lar.”
Pơtao Solomôn Bơni Hiam Hăng Ƀing Ană Plei Israel
(2 Hră Ruai 6:3-11)
14Tơdang abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ dŏ dơ̆ng pơ anŭn, pơtao Solomôn wir glaĭ laih anŭn bơni hiam kơ ƀing gơñu yơh. 15Ñu laĭ tui anai: “Bơni hơơč kơ Yahweh, Ơi Adai ƀing Israel! Tơlơi Ñu ƀuăn kơ ama kâo Dawid hăng amăng bah Ñu pô, Ñu hơmâo pơgiŏng hĭ laih hăng tơngan Ñu pô yơh. Ñu ƀuăn laih tui anai, 16‘Čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi Kâo ba tơbiă laih ƀing ană plei Kâo Israel mơ̆ng lŏn čar Êjip, Kâo ƀu hơmâo ruah mă ôh sa boh plei pă ôh mơ̆ng ƀing kơnung djuai Israel kiăng kơ ƀing gơñu pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ ƀing gơñu pơpŭ pơyom Anăn Kâo pơ anŭn, samơ̆ Kâo hơmâo ruah mă laih ih, Dawid, kiăng kơ git gai wai lăng ƀing ană plei Kâo Israel.’ ”⚓ 17Pơtao Solomôn pơhiăp dơ̆ng tui anai, Ama kâo Dawid hơmâo pơmĭn pơphŭn laih amăng pran jua ñu kiăng pơdơ̆ng đĭ sa boh sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel.⚓18Samơ̆ Yahweh pơhiăp laih hăng ama kâo Dawid tui anai, “Hiam yơh ih hơmâo tơlơi anŭn amăng jua pơmĭn ih kiăng pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo, yuakơ anŭn jing amăng pran jua ih yơh. 19Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀu djơ̆ ih ôh jing pô či pơdơ̆ng đĭ sang yang. Pô či pơdơ̆ng đĭ sang yang kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Kâo jing ană đah rơkơi ih, jing pô tơbiă rai mơ̆ng drah kơtăk ih pô yơh.”⚓ 20Yahweh hơmâo djă̱ pioh tơlơi Ñu ƀuăn laih. Kâo hơmâo đĭ ngă pơtao tŏ tui laih ama kâo Dawid laih anŭn ră anai kâo jing pơtao ƀing Israel, kar hăng tơlơi Yahweh ƀuăn brơi laih. Kâo ăt hơmâo pơdơ̆ng đĭ laih mơ̆n sang yang anŭn kiăng kơ pơpŭ pơyom kơ Anăn Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel. 21Sĭt kâo hơmâo pơkra laih anih pioh kơ hip tơlơi pơgop Yahweh pơ anŭn. Amăng hip anŭn yơh Môseh pioh mŭt dua boh hơnăl pơtâo hơmâo tơlơi pơgop Yahweh, jing tơlơi Ñu hơmâo pơjing laih hăng ƀing ơi adon ta tơdang Ñu ba tơbiă laih ƀing gơ̆ mơ̆ng lŏn čar Êjip.
Tơlơi Pơtao Solomôn Iâu Laĭ Pơyơr Pơkô̆ Sang Yang Yahweh
(2 Hră Ruai 6:12-42)
22Giŏng anŭn, pơtao Solomôn dŏ dơ̆ng ƀơi anăp kơnưl Yahweh jing gah anăp kơ abih bang ƀing Israel pơƀut glaĭ laih anŭn ñu yơr đĭ tơngan ñu pơ adai adih, 23laih anŭn iâu laĭ tui anai: “Ơ Yahweh, jing Ơi Adai ƀing Israel hơi, sĭt ƀu hơmâo ôh Ơi Adai pơkŏn hrup hăng Ih amăng adai gah ngŏ adih ƀôdah ƀơi gah yŭ lŏn tơnah anai. Kơnơ̆ng hơjăn Ih đôč yơh jing Pô djă̱ pioh tơlơi pơgop Ih laih anŭn pơrơđah tơlơi khăp hiam klă Ih kơ ƀing ding kơna Ih, jing ƀing ăt đuaĭ tui amăng jơlan Ih hăng abih pran jua. 24Hrơi anai, Ih hơmâo djă̱ pioh laih tơlơi Ih ƀuăn hăng ding kơna Ih Dawid jing ama kâo. Sĭt hăng amăng bah Ih yơh Ih hơmâo ƀuăn laih, laih anŭn hăng tơngan Ih yơh Ih hơmâo pơgiŏng hĭ laih.
25“Ră anai, Ơ Yahweh jing Ơi Adai ƀing Israel hơi, djă̱ pioh brơi bĕ kơ ding kơna Ih Dawid ama kâo khul tơlơi Ih ƀuăn laih hăng ñu dơ̆ng tơdang Ih laĭ tui anai, ‘Ih ƀu či rơngiă hĭ ôh pô ană tơčô ih dŏ ƀơi grê pơtao kiăng kơ git gai wai lăng lŏn čar Israel, tơdah ƀing ană tơčô ih anŭn kơnơ̆ng răng pơñen rơbat tŏng ten ƀơi anăp Kâo kar hăng tơlơi ih hơmâo ngă laih.’⚓ 26Hơnŭn yơh ră anai, Ơ Ơi Adai ƀing Israel hơi, brơi bĕ boh hiăp Ih ƀuăn laih hăng ding kơna Ih Dawid ama kâo krep truh sĭt.
27“Samơ̆ Ih, jing Ơi Adai, či dŏ ƀơi lŏn tơnah anai biă mă hă? Sĭt khul tal adai wơ̆t hăng adai glông hloh ăt kŏn dưi krư̆ kăl hĭ Ih mơ̆n. Tui anŭn, sang yang kâo hơmâo pơdơ̆ng laih anai jing anet biă mă yơh!⚓ 28Samơ̆ rơkâo kơ Ih pơđi̱ng tơngia bĕ kơ tơlơi ding kơna Ih kâo anai iâu laĭ laih anŭn kơ tơlơi kâo kwưh rơkâo kơ tơlơi khăp pap, Ơ Yahweh Ơi Adai kâo hơi. Hơmư̆ bĕ tơlơi bơni hơơč laih anŭn tơlơi iâu laĭ ding kơna Ih kâo anai hlak iâu laĭ ƀơi anăp Ih hrơi anai. 29Ih laĭ laih Ih či ruah sang yang kiăng kơ pioh Anăn Ih pơ anŭn, tui anŭn kwưh kiăng mơta Ih lăng trŭn pơ sang yang anai hrơi mlam, kiăng kơ Ih dưi hơmư̆ tơlơi ding kơna Ih kâo anai iâu laĭ anăp nao pơ anih anai.⚓ 30Hơmư̆ bĕ tơlơi kwưh rơkâo kơ tơlơi pap mơ̆ng ding kơna Ih kâo anai laih anŭn mơ̆ng ană plei Ih Israel tơdang ƀing gơmơi iâu laĭ anăp nao pơ anih anai. Hơmư̆ bĕ mơ̆ng adai adih, jing anih Ih dŏ, laih anŭn tơdang Ih hơmư̆, rơkâo Ih pap brơi bĕ.
31“Tơdang arăng phŏng kơđi kơ hlơi pô pơsoh hĭ pô re̱ng gah ñu laih anŭn ñu khŏm rai ƀơi anăp kơnưl ngă yang Ih amăng sang yang anai, kiăng kơ ƀuăn rơ̆ng kơ tơlơi ñu ƀu ngă soh ôh, 32tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ hăng laĭ glaĭ đa bĕ mơ̆ng adai adih, laih anŭn phat brơi bĕ tŏng krah dua čô ding kơna ih anŭn. Giŏng anŭn, klă̱ kơđi bĕ mơnuih ngă soh laih anŭn pioh glaĭ bĕ ƀơi akŏ ñu pô hơget tơlơi ñu hơmâo ngă sat laih, samơ̆ pơhaih brơi bĕ pô ƀu ngă soh jing hĭ agaih yuakơ tơlơi tơpă hơnơ̆ng gơ̆.
33“Tơdang ƀing rŏh ayăt blah juă hĭ ƀing ană plei Ih Israel, yuakơ ƀing gơ̆ hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih, tơdah ƀing gơ̆ wơ̆t glaĭ pơ Ih laih anŭn pơhaih Ih jing Ơi Adai ƀing gơ̆, iâu laĭ laih anŭn kwưh pơđu̱r kơ Ih amăng sang yang anai, 34tui anŭn rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih laih anŭn pap brơi tơlơi soh ƀing ană plei Ih Israel anai. Giŏng anŭn, ba glaĭ bĕ ƀing gơ̆ pơ anih lŏn anai, jing anih lŏn Ih hơmâo pha brơi laih kơ ƀing ơi adon ƀing gơ̆.
35“Tơdang khul tal adai adih kho̱ng hăng ƀu hơjan ôh yuakơ ƀing ană plei Ih hơmâo ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih, tơdah ƀing gơñu iâu laĭ anăp nao pơ anih anai, pơhaih Ih jing Ơi Adai gơñu laih anŭn đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng khul tơlơi soh sat gơñu yuakơ Ih hơmâo pơruă hĭ laih ƀing gơñu, 36tui anŭn rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih laih anŭn pap brơi tơlơi soh ƀing ding kơna Ih, jing ană plei Ih Israel anai. Pơtô bĕ kơ ƀing gơñu jơlan djơ̆ kiăng kơ hơdip laih anŭn mơit rai bĕ ia hơjan ƀơi anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ană plei Ih jing gơnam kŏng ngăn gơñu anŭn.
37“Tơdang tơlơi ư̆ rơpa ƀôdah tơlơi kli̱n khe̱ng truh ƀơi anih lŏn anai, angĭn pơiă ƀôdah kơmao mơoai, khul kơtop ƀôdah khul kơtop kơplŏng pơrai hĭ gơnam tăm, ƀôdah tơdang ƀing rŏh ayăt wang blah ƀing gơñu amăng khul plei pla gơñu, hơget tơlơi răm rai ƀôdah hơget tơlơi ruă tơnap truh tơl, 38tui anŭn tơdah kơnơ̆ng sa čô đôč ƀôdah abih bang ƀing ană plei Ih Israel iâu laĭ ƀôdah kwưh rơkâo, yuakơ pơmưn tơlơi ruă rơngot amăng pran jua, laih anŭn yơr đĭ tơngan anăp nao pơ sang yang anai, 39tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih, jing anih Ih dŏ. Hơmư̆ brơi đa laih anŭn pap brơi bĕ. Ngă bĕ kơ rĭm čô tui hăng abih bang tơlơi ñu ngă, yuakơ Ih thâo krăn laih pran jua ñu, sĭt kơnơ̆ng hơjăn Ih yơh thâo krăn abih bang pran jua mơnuih mơnam. 40Tui anŭn yơh, ƀing gơñu či huĭ pơpŭ kơ Ih amăng abih tơlơi hơdip gơñu amăng anih lŏn Ih brơi laih kơ ƀing ơi adon gơmơi anai.
41“Bơ kơ ƀing tuai jing ƀing ƀu lŏm ôh kơ ană plei Ih Israel, đơđa ƀing gơñu či rai mơ̆ng anih lŏn ataih yuakơ ƀing gơñu hơmư̆ kơ tơlơi hing ang anăn Ih. 42Sĭt mơnuih mơnam či hơmư̆ anăn prŏng prin Ih, laih anŭn khul tơlơi mơsêh mơyang Ih ngă laih hăng tơlơi dưi kơtang laih anŭn hơpăl tơngan Ih yơr tơbiă, laih anŭn ƀing gơñu či rai iâu laĭ anăp nao pơ sang yang anai. 43Tui anŭn, rơkâo kơ Ih hơmư̆ đa bĕ mơ̆ng adai adih, jing mơ̆ng anih Ih dŏ, laih anŭn ngă brơi bĕ hơget tơlơi pô tuai anŭn rơkâo kơ Ih, kiăng kơ abih bang mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai dưi đaŏ kơnang kơ anăn Ih laih anŭn huĭ pơpŭ kơ Ih, kar hăng ană plei Ih pô jing ƀing Israel huĭ pơpŭ kơ Ih, laih anŭn kiăng kơ ƀing gơñu dưi thâo krăn sĭt sang yang anai kâo hơmâo pơdơ̆ng đĭ jing anih pơpŭ pơyom kơ anăn Ih yơh.