8

Lễ khánh thành đền thờ. – Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn

1 Bấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành của Đa-vít, tức là Si-ôn. 2 Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn. 3 Khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Đức Giê-hô-va, 4 dời đi luôn với Đền tạm và các khí dụng thánh ở trong Đền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó lên.
5 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được. 6 Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7 Vì các chê-ru-bim giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
10 Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thánh, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va, 11 đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va.
12 Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt. 13 Hỡi Đức Chúa Trời! Tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời.
14 Đoạn, vua xây mặt lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 15 Người nói rằng:
 Đáng khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng:
16 Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta. 17 Vả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18 Nhưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải; 19 song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta. 20 Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền nầy cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
22 Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng:
23 Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp nầy, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhân từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa. 24 Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay. 25 Vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu. 26 Hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi.
27 Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất nầy chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất! 28 Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa, đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay. 29 Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, --- đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi nầy mà cầu. 30 Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi nầy mà khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
31 Khi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt ai đó phải thề, nếu người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền nầy, 32 thì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy theo sự công bình của người.
33 Khi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ thù nghịch đánh được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Chúa trong đền nầy, 34 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35 Nếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ, 36 thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37 Khi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật bịnh gì; 38 nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền nầy, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì, 39 thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi, báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người), 40 để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
41 Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến 42 (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà nầy, 43 xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa; để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền nầy mà tôi đã xây cất.
44 Khi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài, 45 thì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực quyền lợi cho họ.
46 Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần, --- 47 ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng: “Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;” --- 48 nhược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, --- 49 thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ; 50 tha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ, 51 vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt.
52 Nguyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa. 53 Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô.
54 Khi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin nầy xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời. 55 Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng:
56 Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm. 57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi; 58 nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng tôi. 59 Ước gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên; 60 hầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác. 61 Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay.
62 Vua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. 63 Sa-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền của Đức Giê-hô-va là như vậy. 64 Trong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Đức Giê-hô-va là nhỏ quá, đựng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân không đặng.
65 Trong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cọng mười bốn ngày. 66 Ngày thứ tám, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.

8

Y-Salômôn Ba Bi Mŭt Hip Hlăm Sang Yang

(II KYD 5:2-14)

1 Leh anăn Y-Salômôn bi kƀĭn phung khua mduôn Israel leh anăn jih jang phung khua phung găp djuê, phung khua kơ sang ama phung ƀuôn sang Israel ti anăp Mtao Salômôn hlăm ƀuôn Yêrusalem, čiăng kkung hip klei bi mguôp Yêhôwa mơ̆ng ƀuôn Y-Đawit, jing ƀuôn Siôn. 2 Jih jang phung êkei Israel bi kƀĭn kơ Mtao Salômôn ti hruê knăm hlăm mlan Êthanim, jing mlan tal kjuh. 3Jih jang phung khua mduôn Israel truh, leh anăn phung khua ngă yang kkung hip. 4Diñu kkung ba hip Yêhôwa, sang čhiăm klei bi kƀĭn, leh anăn jih jang čhiên mngan doh jăk dôk hlăm sang čhiăm; phung khua ngă yang leh anăn phung Lêwi djă ba dŏ anăn. 5Mtao Salômôn leh anăn jih jang phung Israel bi kƀĭn leh ti anăp ñu dôk dơ̆ng mbĭt hŏng ñu ti anăp hip, ngă yang hŏng lu drei biăp leh anăn êmô tơl diñu amâo dưi tĭng amâodah yap ôh. 6Leh anăn phung khua ngă yang kkung hip klei bi mguôp Yêhôwa kơ anôk gơ̆ hlăm adŭ doh jăk ti lam sang hlăm Adŭ Doh Jăk Hĭn ti gŭ siap phung čêrubim. 7Kyuadah phung čêrubim mblang siap diñu ti dlông anôk hip, snăn phung čêrubim jing mnơ̆ng guôm ti dlông hip leh anăn giê kkung gơ̆. 8Giê kkung anăn dlông snăk tơl arăng dưi ƀuh êdŭk diñu dơ̆ng mơ̆ng adŭ doh jăk ti anăp adŭ doh jăk hlăm lam; ƀiădah arăng amâo dưi ƀuh ôh mơ̆ng tač. Diñu dôk tinăn hlŏng kơ hruê anei. 9 Amâo mâo sa mnơ̆ng hlăm hip knŏng dua pŏk mdhă boh tâo Y-Môis dưm tinăn ti čư̆ Hôrep, anôk Yêhôwa ngă leh klei bi mguôp hŏng phung ƀuôn sang Israel, hlăk diñu kbiă mơ̆ng čar Êjip. 10 Êjai phung khua ngă yang kbiă mơ̆ng adŭ doh jăk, mâo knam bi bŏ sang Yêhôwa. 11Snăn phung khua ngă yang amâo dưi dôk dơ̆ng ôh čiăng mă bruă kyua knam anăn; kyuadah klei guh kơang Yêhôwa bi bŏ sang Yêhôwa.

Klei Myơr Sang Yang

(II KYD 6:1–7:10)

  12 Hlăk anăn Y-Salômôn lač,
   “Yêhôwa dưm leh yang hruê hlăm adiê,
   ƀiădah lač leh ñu srăng dôk hlăm klei mmăt kpal.
  13Kâo mdơ̆ng leh kơ ih sa boh sang arăng mpŭ,
   sa bĭt anôk pioh kơ ih dôk hlŏng lar.”
14Leh anăn mtao wir ƀô̆ ñu leh anăn hơêč hmưi kơ jih jang phung Israel bi kƀĭn, êjai jih jang phung Israel bi kƀĭn dôk dơ̆ng. 15Leh anăn ñu lač, “Mpŭ mni kơ Yêhôwa, Aê Diê phung Israel, pô bi sĭt leh hŏng kngan ñu ya klei ƀăng êgei ñu ƀuăn leh kơ Y-Đawit ama kâo, lač, 16 ‘Dơ̆ng mơ̆ng hruê kâo atăt bi kbiă phung ƀuôn sang kâo Israel mơ̆ng čar Êjip, kâo amâo tuôm ruah ôh sa boh ƀuôn hlăm jih jang găp djuê Israel čiăng mdơ̆ng sa boh sang čiăng kơ Anăn kâo dưi dôk tinăn; ƀiădah kâo ruah leh Y-Đawit brei ñu jing khua kiă kriê phung ƀuôn sang kâo Israel.’ 17 Mâo leh hlăm ai tiê ama kâo Y-Đawit čiăng mdơ̆ng sa boh sang kơ Anăn Yêhôwa, Aê Diê Israel. 18Ƀiădah Yêhôwa lač kơ Y-Đawit ama kâo, ‘Kyuadah hlăm ai tiê ih mâo leh klei čiăng mdơ̆ng sa boh sang kơ Anăn kâo, ih ngă jăk leh mâo klei čiăng msĕ snăn hlăm ai tiê ih; 19 ƀiădah ih amâo srăng mdơ̆ng sang ôh, ƀiădah anak êkei ih, pô arăng srăng kkiêng kơ ih, srăng mdơ̆ng sang kơ Anăn kâo.’ 20Ară anei Yêhôwa bi sĭt leh klei ñu ƀuăn; kyuadah kâo kgŭ leh čuê anôk Y-Đawit ama kâo, leh anăn dôk gŭ ti jhưng mtao Israel, tui si Yêhôwa ƀuăn leh, leh anăn kâo mdơ̆ng leh sang kơ Anăn Yêhôwa, Aê Diê phung Israel. 21Leh anăn tinăn kâo mkra leh sa anôk pioh hip, hlăm hip anăn mâo klei bi mguôp Yêhôwa ngă leh hŏng phung aê drei, hlăk ñu atăt bi kbiă digơ̆ mơ̆ng čar Êjip.”
22Leh anăn Y-Salômôn dôk dơ̆ng ti anăp knưl Yêhôwa ti anăp jih jang phung Israel bi kƀĭn. Ñu yơr kngan ñu phă adiê, 23leh anăn lač, “Ơ Yêhôwa, Aê Diê phung Israel! Amâo mâo ôh Aê Diê mkăn msĕ si ih hlăm adiê ti dlông amâodah ti lăn ala ti gŭ, djă pioh klei bi mguôp leh anăn bi êdah klei khăp sĭt suôr kơ phung dĭng buăl ih, phung êbat ti anăp ih hŏng jih ai tiê diñu; 24pô djă pioh leh hŏng dĭng buăl ih Y-Đawit ama kâo klei ih hưn leh kơ ñu. Sĭt nik ih blŭ leh hŏng ƀăng êgei ih, leh anăn hŏng kngan ih, ih bi sĭt leh klei anăn hruê anei. 25 Snăn ară anei, Ơ Yêhôwa, Aê Diê phung Israel, djă pioh bĕ klei ih ƀuăn leh kơ dĭng buăl ih Y-Đawit ama kâo, klei ih ƀuăn leh kơ ñu, lač, ‘Ti anăp kâo ih amâo srăng kƀah ôh sa čô mnuih dôk gŭ ti jhưng mtao Israel, knŏng tơdah phung anak êkei ih răng kơ êlan diñu, êbat ti anăp kâo msĕ si ih êbat leh ti anăp kâo.’ 26Snăn ară anei, Ơ Aê Diê phung Israel, brei klei ih ƀuăn bi sĭt, klei ih blŭ leh kơ dĭng buăl ih Y-Đawit ama kâo.
27 Ƀiădah sĭt mơ̆ Aê Diê srăng dôk ti lăn ala? Nĕ anei, adiê leh anăn adiê ti dlông hĭn amâo dưi djă pioh ih ôh; kdlưn hĭn kơ anăn sang kâo ngă anei amâo dưi djă pioh ih ôh! 28Ƀiădah mđing bĕ kơ klei dĭng buăl ih wah lač leh anăn kơ klei ñu kwưh, Ơ Yêhôwa Aê Diê kâo, hmư̆ bĕ hruê anei klei dĭng buăl ih ur leh anăn wah lač ti anăp ih; 29 čiăng kơ ală ih dưi mblang mlam leh anăn hruê phă sang anei, anôk ih lač leh, ‘Anăn kâo srăng dôk tinăn;’ čiăng kơ ih dưi hmư̆ klei dĭng buăl ih wah lač phă anôk anei. 30Hmư̆ bĕ kơ klei dĭng buăl ih leh anăn phung ƀuôn sang ih Israel kwưh tơdah diñu wah lač phă anôk anei. Sĭt nik hmư̆ bĕ mơ̆ng adiê anôk ih dôk; leh anăn tơdah ih hmư̆, pap brei bĕ.
31Tơdah sa čô ngă soh hŏng pô riêng gah ñu, leh anăn arăng brei ñu kat asei leh anăn hriê kat asei ti anăp knưl ih hlăm sang anei, 32snăn hmư̆ bĕ mơ̆ng adiê, ngă bĕ, leh anăn phat kđi phung dĭng buăl ih, bi kmhal pô soh êjai bi lĕ klei soh ñu ti dlông boh kŏ ñu pô, leh anăn yap kpă pô kpă êjai bi wĭt kơ ñu tui si klei kpă ñu.
33Tơdah phung ƀuôn sang ih Israel luč hlăm klei bi blah ti anăp phung roh kyuadah diñu ngă soh leh hŏng ih, tơdah diñu lŏ wĭt kơ ih leh anăn hưn klei diñu đăo kơ anăn ih, wah lač leh anăn kwưh kơ ih hlăm sang anei; 34snăn brei ih hmư̆ mơ̆ng adiê, pap brei kơ klei soh phung ƀuôn sang ih Israel, leh anăn lŏ atăt diñu kơ čar ih brei leh kơ phung aê diñu.
35Tơdah adiê không hĕ leh anăn amâo lŏ mâo êa hjan ôh kyuadah diñu ngă soh leh hŏng ih, tơdah diñu wah lač phă anôk anei, leh anăn hưn klei diñu đăo kơ anăn ih, leh anăn lui klei soh diñu, êjai ih bi knap diñu, 36snăn brei ih hmư̆ diñu mơ̆ng adiê, leh anăn pap brei kơ klei soh phung dĭng buăl ih, phung ƀuôn sang Israel, êjai ih bi hriăm diñu êlan jăk diñu srăng êbat; leh anăn brei mâo êa hjan kơ lăn ih, lăn ih brei leh kơ phung ƀuôn sang ih jing ngăn dưn.
37Tơdah mâo klei ư̆ êpa, klei ruă tưp, klei bi kđŭč, klei čăt oh, ktuôp amâodah hluăt truh hlăm čar; tơdah phung roh diñu wang diñu hlăm ya ƀuôn diñu dôk; tơdah mâo klei ruă bi mdjiê, tơdah mâo klei ruă duam; 38ya klei wah lač, ya klei kwưh, thâodah sa čô mnuih amâodah jih jang phung ƀuôn sang ih Israel, grăp čô thâo klei knap hlăm ai tiê ñu pô leh anăn yơr kngan ñu phă sang anei; 39hlăk anăn hmư̆ bĕ mơ̆ng adiê anôk ih dôk, leh anăn pap brei, ngă bĕ, bi wĭt kơ grăp čô tui si ih thâo kral ai tiê ñu, tui si jih êlan ñu (kyuadah ih, knŏng ih yơh thâo kral ai tiê jih jang anak mnuih); 40čiăng kơ diñu dưi huĭ kơ ih jih jang hruê diñu dôk hdĭp hlăm čar ih brei leh kơ phung aê hmei.
41Msĕ snăn mơh tơdah sa čô tue, amâo jing ôh phung ƀuôn sang ih Israel, hriê mơ̆ng čar kbưi kyua anăn ih, 42(kyuadah diñu srăng hmư̆ kơ anăn prŏng ih, kngan myang ih, leh anăn păl ih yơr leh), tơdah ñu hriê wah lač phă sang anei, 43hmư̆ bĕ mơ̆ng adiê anôk ih dôk, leh anăn ngă tui si jih jang klei pô tue iêu wah lač kơ ih; čiăng kơ jih jang phung ƀuôn sang ti lăn ala dưi thâo anăn ih leh anăn huĭ kơ ih, msĕ si phung ƀuôn sang ih Israel, leh anăn čiăng kơ diñu dưi thâo kơ sang anei kâo mdơ̆ng leh kơ ih arăng pia hŏng Anăn ih.
44Tơdah phung ƀuôn sang ih kbiă bi blah hŏng phung roh diñu, êjai tui hlue êlan ih srăng tiŏ diñu nao, leh anăn tơdah diñu wah lač kơ Yêhôwa phă ƀuôn ih ruah leh, leh anăn phă sang kâo mdơ̆ng leh kơ Anăn ih, 45hlăk anăn hmư̆ bĕ mơ̆ng adiê klei diñu wah lač leh anăn kwưh, leh anăn đru bruă diñu.
46Tơdah diñu ngă soh hŏng ih — kyuadah amâo mâo sa čô amâo ngă klei soh ôh — leh anăn ih ăl kơ diñu, leh anăn ih jao diñu kơ sa phung roh, snăn arăng mă ba diñu jing mnă hlăm čar phung roh anôk kbưi amâodah giăm; 47ƀiădah tơdah ai tiê diñu mĭn êjai dôk hlăm čar arăng mă ba diñu jing mnă leh, leh anăn kmhal leh anăn kwưh kơ ih hlăm čar phung mjing diñu mnă, êjai lač, ‘Hmei ngă soh leh, leh anăn ngă klei wê leh anăn klei jhat ƀai;’ 48tơdah diñu kmhal hŏng jih klei mĭn leh anăn hŏng jih ai tiê hlăm čar phung roh diñu, phung mă ba diñu jing mnă, leh anăn diñu wah lač kơ ih phă čar diñu pô, čar ih brei leh kơ phung aê diñu, ƀuôn ih ruah leh, leh anăn sang kâo mdơ̆ng leh kơ Anăn ih; 49hlăk anăn hlăm adiê anôk ih dôk hmư̆ bĕ klei diñu wah lač leh anăn klei diñu kwưh, leh anăn đru bruă diñu, 50leh anăn pap brei kơ phung ƀuôn sang ih ngă soh leh hŏng ih, leh anăn jih jang klei diñu gao klei bhiăn diñu ngă leh hŏng ih; leh anăn brei diñu mâo klei pap ti anăp ală phung mă ba diñu jing mnă, čiăng kơ digơ̆ dưi mâo klei pap kơ diñu, 51(kyuadah diñu jing phung ƀuôn sang ih, leh anăn ngăn dưn ih, phung ih bi kbiă leh mơ̆ng čar Êjip mơ̆ng ti krah kpur pui msei); 52brei ală ih mblang kơ klei dĭng buăl ih kwưh leh anăn kơ klei phung ƀuôn sang ih Israel kwưh, mđing knga kơ diñu grăp bliư̆ diñu iêu wah lač kơ ih. 53Kyuadah ih bi ktlah pioh brei leh diñu mơ̆ng jih jang phung ƀuôn sang ti lăn ala, čiăng brei diñu jing ngăn dưn ih, tui si ih hưn leh hŏng Y-Môis dĭng buăl ih, hlăk ih bi kbiă phung aê hmei mơ̆ng čar Êjip, Ơ Khua Yang Yêhôwa.”
54Tơdah Y-Salômôn bi ruê̆ leh klei wah lač leh anăn klei kwưh anei kơ Yêhôwa, ñu kgŭ mơ̆ng ti anăp knưl Yêhôwa, anôk ñu čuôn kơŭt kngan ñu yơr phă adiê. 55Ñu dôk dơ̆ng leh anăn hơêč hmưi kơ jih jang phung Israel bi kƀĭn hŏng asăp ktang êjai lač, 56 “Mpŭ mni kơ Yêhôwa, pô brei leh klei mdei kơ phung ƀuôn sang ñu Israel, tui si jih jang klei ñu ƀuăn leh. Amâo mâo sa boh blŭ kƀah ôh mơ̆ng jih jang klei ñu ƀuăn jăk, klei anăn ñu hưn leh hŏng dĭng buăl ñu Y-Môis. 57Brei Yêhôwa Aê Diê drei dôk mbĭt hŏng drei, msĕ si ñu dôk leh hŏng phung aê drei. Đăm brei ñu lui drei amâodah hngah kơ drei ôh; 58čiăng kơ ñu gai ai tiê drei phă ñu, čiăng kơ drei êbat hlăm jih jang êlan ñu, leh anăn čiăng kơ drei pioh klei ñu mtă, klei bhiăn ñu, leh anăn klei ñu mtrŭn, klei anăn ñu mtă leh kơ phung aê drei. 59Brei klei kâo blŭ anei, klei kâo kwưh leh ti anăp Yêhôwa, dôk giăm kơ Yêhôwa Aê Diê drei hruê mlam, leh anăn brei ñu đru bruă dĭng buăl ñu, leh anăn bruă phung ƀuôn sang ñu Israel tui si truh grăp hruê; 60čiăng kơ jih jang phung ƀuôn sang ti lăn ala dưi thâo Yêhôwa jing Aê Diê, amâo lŏ mâo pô mkăn ôh. 61Snăn brei ai tiê diih jing sĭt suôr kơ Yêhôwa Aê Diê drei, êbat tui hlue klei bhiăn ñu, leh anăn djă pioh klei ñu mtă msĕ si hruê anei.”
62Leh anăn mtao leh anăn jih jang phung Israel mbĭt hŏng ñu myơr mnơ̆ng ngă yang ti anăp Yêhôwa. 63Y-Salômôn myơr kơ Yêhôwa mnơ̆ng myơr kơ klei êđăp ênang dua pluh dua êbâo drei êmô leh anăn sa êtuh dua pluh êbâo drei biăp. Snăn yơh mtao leh anăn jih jang phung ƀuôn sang Israel myơr sang kơ Yêhôwa. 64Hruê anăn mơh mtao pioh brei anôk ti krah wăl ti anăp sang Yêhôwa; kyuadah tinăn ñu myơr mnơ̆ng myơr čuh, mnơ̆ng myơr kpŭng ƀhĭ, leh anăn kdrêč prăi mơ̆ng mnơ̆ng myơr kơ klei êđăp ênang, kyuadah knưl kông ti anăp Yêhôwa jing điêt đei pioh dưm mnơ̆ng myơr čuh, mnơ̆ng myơr kpŭng ƀhĭ, leh anăn kdrêč prăi mơ̆ng mnơ̆ng myơr kơ klei êđăp ênang.
65Snăn hruê anăn Y-Salômôn ngă klei huă mnăm, leh anăn jih jang phung Israel mbĭt hŏng ñu, sa phung bi kƀĭn lu, mơ̆ng anôk mŭt ƀuôn Hamat truh ti Hnoh Êa Čar Êjip êjai kjuh hruê ti anăp Yêhôwa Aê Diê drei. 66Hruê tal sa păn ñu bi wĭt phung ƀuôn sang. Diñu hơêč hmưi kơ mtao, leh anăn đuĕ wĭt kơ sang diñu pô hŏng ai tiê hơ̆k kdơ̆k kyua jih klei jăk Yêhôwa bi êdah leh kơ Y-Đawit dĭng buăl ñu leh anăn kơ phung Israel phung ƀuôn sang ñu.