16

Sự phản loạn của Cô-rê, Đa-than, và A-bi-ram

1 Vả, Cô-rê, con trai của Dít-sê-ha, cháu của Kê-hát, chít của Lê-vi, giục theo mình Đa-than và A-bi-ram, con trai của Ê-li-áp, cùng với Ôn, con trai của Phê-lết, cháu Ru-bên. 2 Các người nầy với hai trăm năm mươi người trong dân Y-sơ-ra-ên, vốn là quan tướng của hội nghị viên của hội đồng, có danh giá, đều hiệp nhau dấy nghịch cùng Môi-se và A-rôn, 3 mà rằng: Thôi đủ rồi! vì cả hội chúng đều là thánh, và Đức Giê-hô-va ngự ở trong; vậy sao các ngươi tự cao trên hội chúng của Đức Giê-hô-va?
4 Môi-se nghe điều đó, bèn sấp mặt xuống đất, 5 nói cùng Cô-rê và hết thảy kẻ hiệp với người mà rằng: Sáng mai, Đức Giê-hô-va sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài và ai là thánh; Ngài sẽ khiến người đó lại gần Ngài, tức khiến người nào mà Ngài đã chọn lấy đến gần Ngài. 6 Hỡi Cô-rê, hãy làm điều nầy: Ngươi và hết thảy kẻ hiệp với ngươi hãy cầm lư hương; 7 sáng mai hãy để lửa ở trong và bỏ hương ở trên trước mặt Đức Giê-hô-va. Người nào mà Đức Giê-hô-va sẽ chọn ấy là người thánh. Hỡi con cháu Lê-vi, thôi đủ rồi!
8 Môi-se nói cùng Cô-rê rằng: Hỡi con cháu Lê-vi, bây giờ hãy nghe. 9 Về phần các ngươi, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt các ngươi riêng ra với hội chúng Y-sơ-ra-ên, và khiến các ngươi đến gần Ngài đặng làm công việc trong đền tạm của Đức Giê-hô-va, đặng chực hầu việc trước mặt hội chúng, việc ấy há là nhỏ mọn sao? 10 Ngài biểu ngươi, hết thảy anh em ngươi với con cháu Lê-vi đến gần Ngài, các ngươi lại còn kiếm chức tế lễ nữa sao? 11 Vì vậy, ngươi và toàn bè đảng của ngươi đều hiệp lại nghịch cùng Đức Giê-hô-va! Vì A-rôn là ai mà các ngươi lằm bằm cùng người?
12 Môi-se sai đòi Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp; nhưng hai người đáp rằng: chúng tôi không đi lên đâu. 13 Há là điều nhỏ mọn mà ngươi đã đem chúng ta ra khỏi xứ đượm sữa và mật, đặng làm cho chúng ta chết trong đồng vắng, mà ngươi lại còn muốn lấn lướt trên chúng ta nữa sao? 14 Quả thật, ngươi không có dẫn chúng ta đến trong một xứ đượm sữa và mật đâu, ngươi không cho chúng ta đồng ruộng hay là vườn nho làm sản nghiệp đâu! Ngươi toan khoét mắt của dân nầy ư?… Chúng ta không đi lên đâu.
15 Môi-se nổi giận lắm, thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Xin đừng kể đến của lễ chay chúng nó nữa; tôi không có bắt nơi chúng nó một con lừa nào, và tôi cũng không có làm hại một ai trong bọn chúng nó. 16 Đoạn, Môi-se nói cùng Cô-rê rằng: Ngày mai ngươi và toàn bè đảng ngươi với A-rôn hãy ra mắt Đức Giê-hô-va. 17 Mỗi người hãy lấy lư hương mình bỏ hương ở trong, rồi mỗi người dâng lư hương mình trước mặt Đức Giê-hô-va, tức là hai trăm năm mươi cái lư hương. Ngươi và A-rôn, mỗi người cũng phải có lư hương mình. 18 Vậy, mỗi người lấy lư hương mình để lửa vào, bỏ hương trên, rồi đứng tại cửa hội mạc luôn với Môi-se và A-rôn. 19 Cô-rê hiệp cả hội chúng nghịch lại Môi-se và A-rôn tại cửa hội mạc; sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng cả hội chúng. 20 Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 21 Hãy tách khỏi giữa hội chúng nầy, thì ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát. 22 Hai người bèn sấp mặt xuống mà rằng: Ôi Đức Chúa Trời, là Chúa của thần linh mọi xác thịt! chỉ có một người phạm tội mà Chúa lại nổi giận cùng cả hội chúng sao? 23 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 24 Hãy nói cùng hội chúng mà rằng: Hãy dang ra khỏi chung quanh chỗ ở của Cô-rê, Đa-than, và A-bi-ram.
25 Môi-se đứng dậy, đi lại phía Đa-than và A-bi-ram; các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đi theo người. 26 Người nói cùng hội chúng rằng: Bây giờ, hãy dang ra khỏi trại của các người hung ác nầy, và chớ đụng đến vật chi thuộc về họ, e các ngươi sẽ chết vì những tội của họ chăng. 27 Vậy, dân sự dang ra khỏi tứ phía chỗ ở của Cô-rê, Đa-than, và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram ra đứng tại cửa trại với vợ, con trai và con nít mình.
28 Môi-se bèn nói rằng: Nhờ điều nầy các ngươi sẽ biết rằng Đức Giê-hô-va có sai ta đặng làm các điều nầy, và ta chẳng làm sự chi tự ta. 29 Nếu các kẻ đó chết như mọi người khác chết, nếu họ đồng chịu số phận chung như mọi người, thì Đức Giê-hô-va không có sai ta. 30 Nhưng nếu Đức Giê-hô-va làm một sự thật mới, nếu đất hả miệng ra nuốt họ và mọi món chi thuộc về họ, nếu họ còn đương sống mà xuống âm phủ, thì các ngươi sẽ biết rằng những người nầy có khinh bỉ Đức Giê-hô-va. 31 Vừa khi Môi-se nói dứt các lời nầy, đất ngay dưới chân họ bèn nứt ra; 32 hả miệng nuốt họ, gia quyến và hết thảy phe Cô-rê cùng tài sản của chúng nó. 33 Các người đó còn đương sống và mọi vật chi thuộc về họ đều xuống âm phủ; đất lấp lại và chúng nó bị diệt khỏi hội chúng. 34 Cả Y-sơ-ra-ên ở xung quanh nghe tiếng họ la, đều chạy trốn, vì nói rằng: Chúng ta hãy coi chừng, kẻo đất nuốt chúng ta chăng!
35 Rồi một ngọn lửa từ Đức Giê-hô-va lòe ra thiêu hóa hai trăm năm mươi người đã dâng hương.
36 Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 37 Hãy nói với Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn, biểu lượm các lư hương ra khỏi chỗ lửa cháy, và đổ lửa của các lư hương nơi xa, vì lư hương đã nên thánh. 38 Còn những lư hương của các người đã phạm tội cùng sanh mạng mình, người ta phải lấy làm thành những tấm dát mỏng để bọc bàn thờ. Bởi các lư hương đã dâng trước mặt Đức Giê-hô-va đã thành thánh; những tấm dát đó sẽ dùng làm một dấu cho dân Y-sơ-ra-ên. 39 Vậy, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, lấy những lư hương bằng đồng của các người bị thiêu đã dâng lên, và người ta làm thành những tấm dát mỏng để bọc bàn thờ. 40 Ấy là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên, để người nào ngoại dòng A-rôn chớ đến gần đặng xông hương trước mặt Đức Giê-hô-va, kẻo e đồng số phận cùng Cô-rê và bè đảng người, theo lời Đức Giê-hô-va đã cậy Môi-se truyền dạy.
41 Ngày mai, cả hội dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm cùng Môi-se và A-rôn mà rằng: Hai người đã làm chết dân của Đức Giê-hô-va. 42 Khi hội chúng đương hiệp nhau nghịch cùng Môi-se và A-rôn, thì ngó về hướng hội mạc, xảy thấy trụ mây bao phủ hội mạc, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra. 43 Môi-se và A-rôn đến đứng trước hội mạc, 44 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 45 Hãy dang ra khỏi giữa hội chúng nầy, thì ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát. Nhưng hai người sấp mặt xuống đất, 46 rồi Môi-se nói cùng A-rôn rằng: Hãy cầm lấy lư hương để lửa từ trên bàn thờ vào, bỏ hương lên trên, mau mau đi đến hội chúng và làm lễ chuộc tội cho họ; vì sự thạnh nộ của Đức Giê-hô-va đã nổi lên, và tai vạ đã phát khởi. 47 A-rôn bèn cầm lấy lư hương y như Môi-se đã biểu, chạy đến giữa hội chúng; kìa, tai vạ đã phát khởi giữa dân sự. A-rôn bèn bỏ hương vào, và làm lễ chuộc tội cho dân sự. 48 Người đứng giữa kẻ chết và kẻ sống, thì tai vạ bèn ngừng lại. 49 Có mười bốn ngàn bảy trăm người chết vì tai vạ nầy, trừ ra những kẻ đã bị chết vì cớ Cô-rê. 50 Đoạn, A-rôn trở về cùng Môi-se tại cửa hội mạc, rồi tai vạ ngừng lại.

16

Kôrah, Dathan Laih Anŭn Abiram

1Kôrah ană đah rơkơi Izhar, tơčô Kehat, tơčĕ Lêwi pơgop hrŏm hăng đơđa mơnuih mơ̆ng kơnung djuai Reuben tui anai: Dathan laih anŭn Abiram jing ƀing ană đah rơkơi Eliab, laih anŭn On ană đah rơkơi Pelet. Ƀing gơñu jing hĭ ƀrưh mơhiăh biă mă; 2laih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Môseh. Ƀing đuaĭ tui hăng ƀing gơñu truh kơ dua-rơtuh rơmapluh čô ƀing đah rơkơi Israel, jing ƀing khua djă̱ akŏ arăng hơmâo ruah laih amăng tơlơi pơjơnum. 3Abih bang ƀing gơñu rai jing sa grup kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Môseh, A̱rôn laih anŭn ƀing gơñu pơhiăp hăng ƀing Môseh, A̱rôn tui anai, “Ƀing gih hơmâo ngă gao hơnơ̆ng đơi! Abih bang ană plei jing rơgoh hiam soh sel, jing rĭm čô amăng ƀing gơñu, laih anŭn Yahweh dŏ hăng ƀing gơñu. Tui anŭn yơh, yua hơget ƀing gih pơđĭ gih pô gah ngŏ kơ ƀing ană plei Yahweh lĕ?”
4Tơdang Môseh hơmư̆ tơlơi anai, ñu bon akŭp akŏ ñu iâu laĭ ƀơi lŏn. 5Giŏng anŭn, Môseh pơhiăp hăng Kôrah laih anŭn hăng abih bang ƀing đuaĭ tui ñu tui anai, “Amăng mơguah pơgi Yahweh yơh či pơrơđah brơi hlơi pô lŏm kơ Ñu laih anŭn hlơi pô jing rơgoh hiam, laih anŭn Ñu či brơi pô anŭn rai jĕ kơ Ñu. Hlơi pô Ñu ruah, Ñu či brơi pô anŭn rai jĕ kơ Ñu yơh. 6Ih yơh, Ơ Kôrah, laih anŭn abih bang ƀing đuaĭ tui ih yơh či ngă tui tơlơi anai: Mă bĕ khul gŏ apui, 7laih anŭn pioh mŭt bĕ apui hăng gơnam ƀâo mơngưi amăng khul gŏ anŭn amăng hrơi pơgi ƀơi anăp Yahweh. Hlơi pô Yahweh ruah djơ̆, pô anŭn yơh jing rơgoh hiam. Ƀing gih jing ƀing Lêwi hơmâo ngă gao hơnơ̆ng đơi!”
8Môseh ăt laĭ kơ Kôrah dơ̆ng, “Ră anai hơmư̆ bĕ, Ơ ƀing Lêwi! 9Aka djŏp kơ ƀing gih ôh hă, Ơi Adai ƀing Israel hơmâo ruah mă laih ƀing gih mơ̆ng abih ƀing Israel kiăng ba ƀing gih jĕ Ñu pô kiăng mă bruă ƀơi Sang Yang Hăng Khăn Yahweh, laih anŭn dŏ dơ̆ng ƀơi anăp ană plei kiăng mă bruă kơ ƀing gơ̆? 10Ñu hơmâo ruah mă laih anŭn ba rai laih ih wơ̆t hăng ƀing Lêwi kiăng dŏ jĕ kơ Ñu pô, samơ̆ ră anai ƀing gih gir hơduah sua mă bruă khua ngă yang mơ̆n. 11Anŭn jing tơlơi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh yơh tơdang ih laih anŭn abih bang ƀing đuaĭ tui ih hơmâo pơƀut glaĭ laih tơdruă gih. Hlơi A̱rôn jing tơl ƀing gih brŏk ƀuăh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng gơ̆ lĕ?”
12Giŏng anŭn, Môseh iâu rai Dathan hăng Abiram, jing ƀing ană đah rơkơi Eliab. Samơ̆ ƀing gơñu laĭ, “Ƀing gơmơi ƀu či nao ôh! 13Aka djŏp ôh hă ih hơmâo ba laih ƀing gơmơi tơbiă mơ̆ng anih lŏn bă hăng gơnam hiam kar hăng ia tơsâo laih anŭn ia hơni kiăng kơ pơdjai hĭ ƀing gơmơi amăng tơdron ha̱r anai? Laih anŭn ră anai ih ăt kiăng ngă khua kơ ƀing gơmơi mơ̆n hă? 14Hloh kơ anŭn dơ̆ng, ih ƀu hơmâo ba nao ƀing gơmơi mŭt amăng čar bă hăng gơnam hiam kar hăng ia tơsâo laih anŭn ia hơni ƀôdah brơi kơ ƀing gơmơi sa kŏng ngăn jing khul đang hơma laih anŭn đang boh kơƀâo ôh tui hăng ih ƀuăn laih kơ ƀing gơmơi. Ih kiăng kơ plŏm ƀlŏr hĭ ƀing anai hă? Ơ ơh, ƀing gơmơi ƀu či nao ôh!”
15Giŏng anŭn, Môseh hil biă mă laih anŭn pơhiăp hăng Yahweh, “Rơkâo kơ Ih anăm mă tŭ ôh hơdôm gơnam pơyơr gơñu. Kâo ƀu pơsoh hĭ sa čô amăng ƀing gơñu ôh, kâo ăt kŏn mă tŭ lơi tơl sa drơi aseh glai mơ̆ng ƀing gơñu.”
16Môseh laĭ kơ Kôrah, “Ih hăng abih bang ƀing đuaĭ tui ih nao bĕ ƀơi anăp Yahweh hrơi pơgi, anŭn jing ih, ƀing gơñu laih anŭn A̱rôn yơh. 17Rĭm čô anŭn khŏm djă̱ ba gŏ apui ƀâo mơngưi ñu pô hăng pioh mŭt gơnam ƀâo mơngưi amăng anŭn; abih bang jing dua-rơtuh rơmapluh boh gŏ apui laih anŭn pơyơr bĕ ƀơi anăp Yahweh. Ih hăng A̱rôn ăt či pơyơr hơdôm gŏ apui gih mơ̆n.” 18Tui anŭn yơh, rĭm čô mă gŏ ñu pô, pioh mŭt apui laih anŭn gơnam ƀâo mơngưi, laih anŭn dŏ dơ̆ng hăng Môseh laih anŭn A̱rôn ƀơi bah amăng mŭt nao pơ Sang Khăn Pơjơnum. 19Tơdang anŭn Kôrah hơmâo pơƀut glaĭ abih bang ƀing ană plei hăng dŏ klă̱ anăp hăng ƀing Môseh ƀơi bah amăng mŭt nao pơ Sang Khăn Pơjơnum, laih anŭn tơlơi ang yang Yahweh pơƀuh rai kơ abih bang ƀing ană plei. 20Yahweh pơhiăp hăng Môseh laih anŭn A̱rôn tui anai, 21“Pơčơlah bĕ gih pô mơ̆ng ƀing ană plei anŭn, tui anŭn Kâo či pơrai hĭ ƀing gơñu sa wơ̆t mơtam.”
22Samơ̆ Môseh hăng A̱rôn bon akŭp ƀô̆ gơñu ƀơi lŏn hăng ur đĭ, “Ơ Ơi Adai hơi, jing Ơi Adai pha brơi bơngăt hơdip kơ abih bang mơnuih mơnam, Ih či hil kơ abih bang ƀing ană plei anai tơdang kơnơ̆ng hơmâo sa čô đôč ngă soh hă?”
23Giŏng anŭn, Yahweh pơhiăp hăng Môseh, 24“Pơhiăp bĕ hăng ƀing ană plei tui anai, ‘Đuaĭ ataih bĕ mơ̆ng hơdôm sang khăn ƀing Kôrah, Dathan laih anŭn Abiram.’ ”
25Môseh tơgŭ hăng nao pơ Dathan hăng Abiram, laih anŭn abih bang ƀing kŏng tha Israel đuaĭ tui ñu. 26Ñu khă ƀing ană plei tui anai, “Đuaĭ ataih bĕ mơ̆ng hơdôm sang khăn ƀing sat ƀai anŭn! Anăm tĕk djơ̆ ôh gơnam hơget lŏm kơ ƀing gơñu, huĭdah ƀing gih či răm rai tui hĭ yơh yuakơ abih bang hơdôm tơlơi soh ƀing gơñu ngă laih.” 27Tui anŭn, ƀing gơñu đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng hơdôm sang khăn ƀing Kôrah, Dathan laih anŭn Abiram. Dathan hăng Abiram hơmâo tơbiă rai laih mơ̆ng sang khăn gơñu pô, hlak dŏ dơ̆ng hăng ƀing bơnai, ƀing ană bă wơ̆t hăng ƀing ană anet gơñu ƀơi khul bah amăng mŭt amăng hơdôm sang khăn gơñu.
28Giŏng anŭn, Môseh laĭ, “Tui anai yơh ƀing gih či thâo ƀu djơ̆ mơ̆ng tơlơi pơmĭn kâo pô ôh, samơ̆ Yahweh yơh pơkiaŏ rai kâo kiăng kơ ngă abih bang tơlơi. 29Tơdah ƀing mơnuih anai kơnơ̆ng thâo krăn hơget tơlơi juăt truh kơ mơnuih mơnam đôč laih anŭn djai kar hăng mơnuih juăt djai đôč, tui anŭn Yahweh ƀu pơkiaŏ rai kâo ôh. 30Samơ̆ tơdah Yahweh ngă kơ lŏn čơđa̱ng laih anŭn lŏn ha̱ amăng bah lun ƀơ̆ng hĭ ƀing gơñu wơ̆t hăng abih bang gơnam lŏm kơ ƀing gơñu mơ̆n; laih anŭn ƀing gơñu mŭt nao amăng anih ƀing djai Seôl tơdang ƀing gơñu ăt dŏ hơdip mơ̆n, tui anŭn ƀing gih či thâo krăn yơh ƀing mơnuih anai hơmâo djik djak laih kơ Yahweh.”
31Laih kơ ñu pơhiăp abih bang tơlơi anai, lŏn gah yŭ ƀing Kôrah čơđa̱ng, 32laih anŭn lŏn ha̱ amăng bah lun ƀơ̆ng hĭ ƀing gơñu wơ̆t hăng abih bang sang anŏ gơñu laih anŭn abih bang ƀing đuaĭ tui Kôrah wơ̆t hăng abih bang dram gơnam gơñu mơ̆n. 33Ƀing gơñu trŭn nao amăng anih ƀing djai Seôl tơdang ƀing gơñu ăt dŏ hơdip wơ̆t hăng abih bang gơnam ƀing gơñu hơmâo; lŏn si̱r glaĭ tui anŭn ƀing gơñu răm rai hăng đuaĭ hĭ thĕng mơ̆ng ƀing ană plei yơh. 34Tơdang hơmư̆ ƀing gơñu ur, abih bang ƀing Israel đuaĭ kơdŏp hăng ur kraih, “Lŏn tơnah či lun ƀơ̆ng hĭ ƀing ta mơ̆n!”
35Giŏng anŭn, apui tơbiă rai mơ̆ng Yahweh čuh hĭ dua-rơtuh rơmapluh čô ƀing pơyơr đĭ gơnam ƀâo mơngưi.
36Yahweh pơhiăp hăng Môseh, 37“Laĭ bĕ kơ Eleazar ană đah rơkơi A̱rôn, jing khua ngă yang kiăng mă hĭ khul gŏ apui ƀâo mơngưi tơbiă mơ̆ng apui hlak jă̱, laih anŭn tuh hĭ hơdăng ngur mơ̆ng khul gŏ anŭn pơ anih ataih. Ƀing gơñu khŏm mă khul gŏ anai yuakơ jing rơgoh hiam laih, 38anŭn jing khul gŏ apui ƀâo mơngưi ƀing mơnuih soh pơyơr hăng rơngiă hĭ laih khul tơlơi hơdip gơñu. Čruih tia bĕ hơdôm mơtĭl gŏ ƀâo mơngưi anai jing hĭ rơpi̱h hăng lo̱m hĭ ƀơi kơnưl ngă yang anŭn, yuakơ arăng hơmâo pơyơr laih khul gŏ anai ƀơi anăp Yahweh laih anŭn jing hĭ rơgoh hiam laih. Brơi bĕ tơlơi anai jing sa gru kơnăl kiăng kơ brơi ƀing Israel răng.”
39Tui anŭn, Eleazar jing khua ngă yang pơƀut glaĭ abih bang gŏ apui ƀâo mơngưi ko̱ng anŭn, jing khul gŏ ƀing djai yuakơ apui ƀơ̆ng anŭn hơmâo pơyơr laih. Giŏng anŭn, ñu čruih tia khul gŏ anai jing hĭ gơnam lo̱m ƀơi kơnưl anŭn, 40tui hăng Yahweh pơrơđah brơi laih kơ Môseh. Gơnam lo̱m anai yơh či pơhơdơr kơ ƀing Israel tui anai: Rơngiao kơ kơnung djuai A̱rôn, ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi rai čuh gơnam ƀâo mơngưi ƀơi anăp Yahweh, huĭdah hlơi pô pơkŏn nao čuh, ñu anŭn či djai hĭ hrup hăng Kôrah laih anŭn ƀing đuaĭ tui ñu djai yơh.
41Samơ̆ amăng hrơi tŏ tui abih bang ƀing Israel brŏk ƀuăh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Môseh laih anŭn A̱rôn. Ƀing gơñu laĭ tui anai, “Ƀing gih hơmâo pơdjai hĭ laih ƀing ană plei Yahweh.”
42Tơdang ƀing ană plei pơƀut glaĭ kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Môseh laih anŭn A̱rôn, laih anŭn ƀing gơñu wir anăp nao pơ Sang Khăn Pơjơnum, blĭp blăp mơtam kơthul go̱m hĭ sang anŭn laih anŭn tơlơi ang yang Yahweh pơƀuh rai. 43Giŏng anŭn, Môseh hăng A̱rôn nao pơ anăp Sang Khăn Pơjơnum, 44laih anŭn Yahweh pơhiăp hăng Môseh tui anai, 45“Đuaĭ ataih bĕ mơ̆ng ƀing mơnuih pơƀut glaĭ ƀơi anai, tui anŭn Kâo či pơluč hĭ ƀing gơñu amăng sa wơ̆t.” Tui anŭn, dua ƀing gơñu bon akŭp ƀô̆ gơñu iâu laĭ ƀơi lŏn.
46Giŏng anŭn, Môseh pơhiăp hăng A̱rôn, “Mă bĕ gŏ apui ƀâo mơngưi ih laih anŭn pioh mŭt bĕ gơnam ƀâo mơngưi amăng gŏ anŭn wơ̆t hăng apui mơ̆ng kơnưl anŭn, laih anŭn tañ tañ bĕ nao pơ ƀing ană plei kiăng pơkra tơlơi pap brơi kơ ƀing gơñu. Tơlơi hil tơbiă rai laih mơ̆ng Yahweh; tơlơi kli̱n khe̱ng čơdơ̆ng hơmâo laih.” 47Tui anŭn, A̱rôn ngă tui hăng tơlơi Môseh laĭ yơh; ñu đuaĭ mŭt amăng tŏng krah ƀing ană plei. Tơlơi kli̱n khe̱ng čơdơ̆ng hơmâo laih amăng ƀing ană plei, samơ̆ A̱rôn pơyơr đĭ gơnam ƀâo mơngưi hăng pơkra tơlơi pap brơi kơ ƀing gơ̆. 48Ñu dŏ dơ̆ng kơplăh wăh ƀing hơdip laih anŭn ƀing djai, giŏng anŭn tơlơi kli̱n khe̱ng dơ̆ng hĭ. 49Samơ̆ hơmâo pluh-pă̱-rơbâo tơjuh-rơtuh čô mơnuih djai mơ̆ng tơlơi kli̱n anŭn, jing ƀing mơnuih djai thim dơ̆ng yuakơ tơlơi Kôrah hơmâo ngă laih. 50Giŏng anŭn, A̱rôn wơ̆t glaĭ pơ Môseh ƀơi bah amăng mŭt nao pơ Sang Khăn Pơjơnum, yuakơ tơlơi kli̱n hơmâo dơ̆ng hĭ laih.