22

Sự đau đớn, sự chết, và sự sống lại của Đức Chúa Jêsus

(Từ đoạn 22 đến đoạn 24)

Sự lập mưu của các thầy tế lễ

(Mat 26:1-5; Mac 14:1,2; Gi 11:45-53)

1 Ngày lễ ăn bánh không men tức là lễ Vượt qua đến gần. 2 Các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo tìm phương đặng giết Đức Chúa Jêsus; vì họ sợ dân.

Đứa phản Chúa

(Mat 26:14-16; Mac 14:10,11)

3 Vả, quỉ Sa-tan ám vào Giu-đa, gọi là Ích-ca-ri-ốt, là người trong số mười hai sứ đồ, 4 nó đi kiếm các thầy tế lễ cả và các thầy đội, để đồng mưu dùng cách nào nộp Ngài cho họ. 5 Các người kia mừng lắm, hứa sẽ cho nó tiền bạc. 6 Nó đã ưng thuận với họ, bèn kiếm dịp tiện đặng nộp Đức Chúa Jêsus trong khi dân chúng không biết.

Lễ Tiệc thánh lập ra

(Mat 26:17-25; Mac 14:12-21; Gi 13:21-30)

7 Đến ngày lễ ăn bánh không men, là ngày người ta phải giết con sinh làm lễ Vượt qua, 8 Đức Chúa Jêsus sai Phi-e-rơ và Giăng đi, mà phán rằng: Hãy đi dọn lễ Vượt qua cho chúng ta ăn. 9 Hai người thưa rằng: Thầy muốn chúng tôi dọn lễ ấy tại đâu? 10 Ngài đáp rằng: Khi các ngươi vào thành, sẽ gặp một người mang vò nước; hãy theo người vào nhà, 11 và nói cùng chủ nhà rằng; Thầy phán cùng ngươi rằng: Phòng khách là chỗ ta sẽ ăn lễ Vượt qua với môn đồ ta ở đâu? 12 Chủ nhà sẽ chỉ cho một cái phòng rộng và cao, đồ đạc sẵn sàng; các ngươi hãy dọn ở đó. 13 Hai môn đồ đi, quả gặp những điều như Ngài đã phán, bèn dọn lễ Vượt qua.
14 Đến giờ, Ngài ngồi bàn ăn, các sứ đồ cùng ngồi với Ngài. 15 Ngài phán rằng: Ta rất muốn ăn lễ Vượt qua nầy với các ngươi trước khi ta chịu đau đớn. 16 Vì, ta nói cùng các ngươi, ta sẽ không ăn lễ nầy nữa cho đến khi lễ ấy được trọn trong nước Đức Chúa Trời. 17 Ngài bèn cầm chén, tạ ơn, rồi phán rằng: Hãy lấy cái nầy phân phát cho nhau. 18 Vì, ta nói cùng các ngươi, từ nay ta sẽ không uống trái nho nữa, cho tới khi nước Đức Chúa Trời đến rồi. 19 Đoạn, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn xong, bẻ ra phân phát cho môn đồ, mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, đã vì các ngươi mà phó cho; hãy làm sự nầy để nhớ đến ta. 20 Khi ăn xong, Ngài cũng làm như vậy, lấy chén đưa cho môn đồ, mà phán rằng: Chén nầy là giao ước mới trong huyết ta vì các ngươi mà đổ ra… 21 Vả lại, nầy, bàn tay kẻ phản ta ở gần ta, nơi bàn nầy. 22 Con người đi, theo như điều đã chỉ định; nhưng khốn cho người nầy phản Ngài! 23 Môn đồ bèn hỏi nhau trong bọn mình ai là người sẽ làm điều đó.

Sự biện luận trong môn đồ

(Mat 18:1; Mac 9:34; Lu 9:46)

24 Môn đồ lại cãi lẫy nhau, cho biết ai sẽ được tôn là lớn hơn hết trong đám mình. 25 Nhưng Ngài phán cùng môn đồ rằng: Các vua của các dân ngoại lấy phép riêng mình mà cai trị, những người cầm quyền cai trị được xưng là người làm ơn. 26 Về phần các ngươi, đừng làm như vậy; song ai lớn hơn trong các ngươi phải như kẻ rất nhỏ, và ai cai trị phải như kẻ hầu việc. 27 Vì một người ngồi ăn với một người hầu việc, ai là lớn hơn? Có phải là kẻ ngồi ăn không? Nhưng ta ở giữa các ngươi như kẻ hầu việc vậy. 28 Còn như các ngươi đã bền lòng theo ta trong mọi sự thử thách ta, 29 nên ta ban nước cho các ngươi, cũng như Cha ta đã ban cho ta vậy, 30 để các ngươi được ăn uống chung bàn trong nước ta, và được ngồi ngai để xét đoán mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên.

Lời bảo trước cho Phi-e-rơ

(Mat 26:31-35; Mac 14:27-31; Gi 13:36-38)

31 Hỡi Si-môn, Si-môn, nầy, quỉ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. 32 Song ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy, đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình. 33 Phi-e-rơ thưa rằng: Thưa Chúa, tôi sẵn lòng đi theo Chúa, đồng tù đồng chết. 34 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi Phi-e-rơ, ta nói cùng ngươi, hôm nay khi gà chưa gáy, ngươi sẽ ba lần chối không biết ta.
35 Đoạn, Ngài lại phán rằng: Khi ta đã sai các ngươi đi, không đem túi, bao, giày chi hết, các ngươi có thiếu gì không? Môn đồ thưa rằng: Không thiếu chi hết. 36 Ngài phán rằng: Nhưng bây giờ, ai có túi bạc, hãy lấy đi, ai có bao, cũng vậy; ai không có gươm, hãy bán áo ngoài đi mà mua. 37 Vì ta rao cho các ngươi, có lời chép rằng: Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ. Lời ấy phải ứng nghiệm về chính mình ta. Thật vậy, sự đã chỉ về ta hầu được trọn. 38 Các sứ đồ thưa rằng: Thưa Chúa, có hai thanh gươm đây. Ngài phán rằng: Ấy là đủ.

Vườn Ghết-sê-ma-nê. – Sự bắt Đức Chúa Jêsus

(Mat 26:36-56; Mac 14:32-50; Gi 18:3-11)

39 Đoạn, Đức Chúa Jêsus ra đi, lên núi Ô-li-ve theo như thói quen; các môn đồ cùng đi theo Ngài. 40 Khi đã đến nơi đó, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Hãy cầu nguyện, hầu cho các ngươi khỏi sa vào sự cám dỗ. 41 Ngài bèn đi khỏi các môn đồ, cách chừng liệng một cục đá, quì xuống mà cầu nguyện 42 rằng: Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy khỏi tôi! Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không theo ý tôi!… 43 Có một thiên sứ từ trên trời hiện xuống cùng Ngài, mà thêm sức cho Ngài. 44 Trong cơn rất đau thương, Ngài cầu nguyện càng thiết, mồ hôi trở nên như giọt máu lớn rơi xuống đất. 45 Cầu nguyện xong, Ngài đứng dậy trở lại cùng các môn đồ, thấy đương ngủ mê vì buồn rầu. 46 Ngài phán rằng: Sao các ngươi ngủ? Hãy đứng dậy cầu nguyện, để cho khỏi sa vào sự cám dỗ.
47 Khi Ngài còn đương phán, một lũ đông kéo đến. Tên Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, đi trước hết, lại gần Đức Chúa Jêsus đặng hôn Ngài. 48 Đức Chúa Jêsus hỏi rằng: Hỡi Giu-đa, ngươi lấy cái hôn để phản Con người sao? 49 Những người ở với Ngài thấy sự sắp xảy đến, bèn nói rằng: Thưa Chúa, chúng tôi nên dùng gươm đánh chăng? 50 Một người trong các sứ đồ đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm và chém đứt tai bên hữu. 51 Nhưng Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Hãy để cho họ đến thế! Ngài bèn rờ tai đầy tớ ấy, làm cho nó được lành. 52 Đoạn, Đức Chúa Jêsus phán cùng các thầy tế lễ cả, các thầy đội coi đền thờ, và các trưởng lão đã đến bắt Ngài, rằng: Các ngươi cầm gươm và gậy đến bắt ta, như bắt kẻ trộm cướp. 53 Hằng ngày ta ở trong đền thờ với các ngươi, mà các ngươi không ra tay bắt ta. Nhưng nầy là giờ của các người, và quyền của sự tối tăm vậy.

Đức Chúa Jêsus trước mặt Cai-phe. – Sự chối của Phi-e-rơ

(Mat 26:57-75; Mac 14:53-72; Gi 18:12-27)

54 Bấy giờ họ bắt Đức Chúa Jêsus đem đi, giải Ngài đến nhà thầy cả thượng phẩm. Phi-e-rơ đi theo Ngài xa xa. 55 Họ nhúm lửa giữa sân, rồi ngồi với nhau; Phi-e-rơ cũng ngồi giữa đám họ. 56 Một con đòi kia thấy Phi-e-rơ ngồi gần lửa, thì ngó chăm chỉ, mà nói rằng: Người nầy vốn cũng ở với người ấy. 57 Song Phi-e-rơ chối Đức Chúa Jêsus, nói rằng: Hỡi đàn bà kia, ta không biết người đó. 58 Một lát, có người khác thấy Phi-e-rơ, nói rằng: Ngươi cũng thuộc về bọn đó! Phi-e-rơ đáp rằng: Hỡi người, ta không phải thuộc về bọn đó đâu. 59 Độ cách một giờ, có kẻ khác đề quyết như vậy mà rằng: Thật người nầy cũng ở với Jêsus, vì người là dân Ga-li-lê. 60 Nhưng Phi-e-rơ cãi rằng: Hỡi người, ta không biết ngươi nói chi! Đương lúc Phi-e-rơ còn nói, thì gà liền gáy; 61 Chúa xây mặt lại ngó Phi-e-rơ. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa đã phán cùng mình rằng: Hôm nay trước khi gà chưa gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần; 62 rồi đi ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
63 Vả, những kẻ canh Đức Chúa Jêsus nhạo báng và đánh Ngài; 64 che mặt Ngài lại, rồi nói rằng: Hãy nói tiên tri đi, hãy đoán xem ai đánh ngươi! 65 Họ lại nhiếc móc Ngài nhiều lời khác nữa.
66 Đến sáng ngày, các trưởng lão trong dân, các thầy tế lễ cả, và các thầy thông giáo nhóm lại, rồi sai đem Đức Chúa Jêsus đến nơi tòa công luận. 67 Họ hỏi Ngài rằng: Nếu ngươi phải là Đấng Christ, hãy xưng ra cho chúng ta. Ngài đáp rằng: Nếu ta nói, thì các ngươi không tin; 68 nếu ta tra gạn các ngươi, thì các ngươi không trả lời. 69 Nhưng từ nay về sau, Con người sẽ ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời. 70 Ai nấy đều hỏi rằng: Vậy, ngươi là Con Đức Chúa Trời sao? Ngài đáp rằng: Chính các ngươi nói ta là Con Ngài. 71 Họ bèn nói rằng: Chúng ta nào có cần chứng cớ nữa làm chi? Chính chúng ta đã nghe từ miệng nó nói ra rồi.

22

Yudas Tŭ Ư Pơblư̆ Lui Hĭ Yêsu

(Mathiơ 26:1-5; Markôs 14:1, 2; Yôhan 11:45-53)

1Tơdang anŭn hrơi Phet Ƀañ Tơpŭng Ƀu Hơmâo Tơpơi, jing hrơi phet Tơlơi Găn, jĕ či truh laih. 2Ƀing khua ngă yang prŏng wơ̆t hăng ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt hơduah mơneč kiăng kơ pơdjai hĭ Yêsu hăng tơlơi hơgŏm, yuakơ ƀing gơñu huĭ kơ ƀing mơnuih lu ƀuh gơñu laih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu yơh.

Yudas Tŭ Ư Pơblư̆ Hĭ Yêsu

(Mathiơ 26:14-16; Markôs 14:10, 11)

3Giŏng anŭn, yang sat Satan mŭt amăng Yudas Iskariôt kiăng kơ git gai ñu, wơ̆t tơdah ñu jing sa čô amăng pluh-dua čô ƀing ding kơna pơjao Yêsu. 4Tui anŭn, Yudas tơbiă nao črong sai hăng ƀing khua ngă yang prŏng wơ̆t hăng ƀing khua tơhan gak wai Sang Yang mơ̆n, kiăng kơ hơduah hơdră jơlan dưi pơblư̆ jao lui hĭ Yêsu kơ ƀing gơñu. 5Tui anŭn, ƀing gơñu mơak biă mă laih anŭn ƀuăn tŭ ư kiăng pha brơi prăk kơ Yudas. 6Giŏng anŭn, Yudas tŭ ư hăng ƀing gơñu yơh, laih anŭn ñu hơduah mông găl kiăng kơ pơblư̆ jao lui hĭ Yêsu kơ ƀing gơñu jing amăng mông ƀu ƀuh ôh ƀing mơnuih lu jum dar.

Ƀing Ding Kơna Pơjao Ñu Prap Pre Gơnam Ƀơ̆ng Tơlơi Găn

(Mathiơ 26:17-25; Markôs 14:12-21; Yôhan 13:21-30)

7Tơdang anŭn, hrơi tal sa amăng hơdôm hrơi Phet Ƀañ Tơpŭng Ƀu Hơmâo Tơpơi truh yơh, jing hrơi ƀing Yehudah khŏm pơdjai hĭ ană triu kơ tơlơi Phet Tơlơi Găn. 8Tui anŭn, Yêsu pơkiaŏ nao Pêtrôs hăng Yôhan laih anŭn pơtă tui anai, “Nao prap pre bĕ gơnam ƀơ̆ng kơ tơlơi Phet Tơlơi Găn kơ ƀing ta dưi ƀơ̆ng.” 9Ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Pơpă Ih kiăng kơ ƀing gơmơi prap pre brơi lĕ?”
10Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu, “Anai nê, tơdang ƀing gih mŭt amăng plei prŏng Yerusalaim anŭn, hơmâo sa čô mơnuih đua sa boh čeh ia či bưp ƀing gih yơh. Kiaŏ tui ñu bĕ truh pơ sang ñu mŭt anŭn, 11laih anŭn pơhiăp bĕ hăng pô sang anŭn tui anai, ‘Nai ta kiăng tơña kơ ih tui anai: Pơpă anih tuai, jing anih Kâo či ƀơ̆ng hrơi Phet Tơlơi Găn hrŏm hăng ƀing ding kơna Kâo lĕ?’ 12Tui anŭn, ñu či kơčrâo brơi kơ ƀing gih yơh sa boh anih prŏng tal gah ngŏ hơmâo laih djŏp gơnam yua laih anŭn prap pre bĕ gơnam ƀơ̆ng pơ anŭn.”
13Ƀing gơñu tơbiă nao hơduah ƀuh djơ̆ krep kar hăng Yêsu hơmâo pơtă laih kơ ƀing gơñu. Giŏng anŭn, ƀing gơñu prap pre gơnam ƀơ̆ng kơ hrơi Phet Tơlơi Găn pơ anŭn yơh.

Tơlơi Ƀơ̆ng Pơgop Khua Yang

(Mathiơ 26:26-30; Markôs 14:22-26; 1 Korinthos 11:23-25)

14Tơdang mông ƀơ̆ng Phet Tơlơi Găn truh laih, Yêsu dŏ ƀơi kơƀa̱ng ƀơ̆ng huă hrŏm hăng pluh-dua čô ƀing ding kơna pơjao Ñu mơ̆n. 15Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo hơmâo kiăng biă mă laih yơh ƀơ̆ng Tơlơi Găn anai hăng ƀing gih hlâo kơ Kâo tŭ tơlơi ruă nuă. 16Kâo laĭ hăng ƀing gih, anai jing tơhơnal tơlơi yom pơphan biă mă: Kâo ƀu či ƀơ̆ng tui hăng tơlơi Phet anai dơ̆ng tah tơl tơlơi kơñăm tơlơi Phet anŭn krep truh hĭ amăng rơnŭk Dêh Čar Hlŏng Lar Ơi Adai.”
17Giŏng anŭn, Yêsu mă kơčŏk ia boh kơƀâo, bơni hơơč laih anŭn laĭ tui anai, “Mă bĕ kơčŏk anai laih anŭn pơpha mơñum bĕ hăng tơdruă gih. 18Kâo pơtă kơ ƀing gih, anai jing tơhơnal tơlơi yom pơphan biă mă: Čơdơ̆ng mơ̆ng ră anai, Kâo ƀu či mơñum ia boh kơƀâo dơ̆ng tah tơl rơnŭk Dêh Čar Hlŏng Lar Ơi Adai truh yơh.”
19Giŏng anŭn, Yêsu mă sa pŏk ƀañ tơpŭng, bơni hơơč laih anŭn pĕ pơpha kơ ƀing ding kơna pơjao Ñu hăng laĭ tui anai, “Anai jing drơi jan Kâo, jing drơi Kâo jĕ či pơsăn brơi laih yuakơ ƀing gih. Ƀơ̆ng bĕ ƀañ tui anai nanao kiăng kơ djă̱ hơdơr kơ Kâo.” 20Tơdang ƀing gơñu ƀơ̆ng giŏng laih, Yêsu ăt ngă kar hăng anŭn mơ̆n; Ñu mă kơčŏk ia boh kơƀâo pơkŏn laih anŭn laĭ tui anai, “Kơčŏk ia boh kơƀâo anai jing tơlơi pơgop phrâo, jing tơlơi ƀuăn Ơi Adai pơjing hăng mơnuih mơnam kiăng pơklaih hĭ ƀing gơ̆ yuakơ Kâo tuh brơi drah Kâo. 21Samơ̆ anai nê, tơngan pô či pơblư̆ jao lui hĭ Kâo kơ ƀing rŏh Kâo hlak hrŏm hăng tơngan Kâo dŏ ƀơ̆ng huă ƀơi kơƀa̱ng anai. 22Kâo, jing Ană Mơnuih, či djai hĭ tui hăng tơlơi hơmâo pơkă lui laih, samơ̆ răm ƀăm yơh kơ pô či pơblư̆ jao lui hĭ Kâo!”
23Giŏng anŭn, ƀing ding kơna anŭn čơdơ̆ng pơtơña kơ tơdruă gơñu kiăng kơ thâo hlơi pô či ngă tơlơi anŭn.

Tơlơi Pơrơjăh Kơ Pô Jing Yom Pơphan Hloh

24Tơdơi kơ anŭn, ƀing ding kơna pơjao čơdơ̆ng pơrơjăh hăng tơdruă gơñu kơ tơlơi hlơi pô amăng ƀing gơñu jing pô yom pơphan hloh. 25Tui anŭn, Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing pơtao hơdôm lŏn čar Tuai yua tơlơi dưi gơñu pô kiăng kơ git gai wai lăng ƀing ană plei gơñu, samơ̆ ƀing khua anŭn yap gơñu pô jing ƀing djru ană plei yơh. 26Samơ̆ gah kơ ƀing gih, anăm jing hrup hăng anŭn ôh. Hlơi pô kiăng jing pô yom pơphan hloh amăng ƀing gih, brơi kơ ñu anŭn jing bĕ hrup hăng pô čơđai hloh, jing pô luă gŭ hloh, laih anŭn pô djă̱ akŏ khŏm jing bĕ hrup hăng pô ding kơna mă bruă kơ ƀing ding kơna ñu dui ba. 27Amăng dua čô anai, hlơi jing pô yom pơphan hloh lĕ: Pô dŏ be̱r ƀơ̆ng huă ƀôdah pô ding kơna yŏng brơi gơnam ƀơ̆ng? Rĭm mơnuih mơnam thâo krăn yơh pô dŏ ƀơi kơƀa̱ng ƀơ̆ng huă jing pô yom pơphan hloh. Samơ̆ Kâo dŏ hăng ƀing gih jing hrup hăng pô ding kơna mă bruă djru kơ ƀing gih yơh. 28Ƀing gih yơh jing ƀing hơmâo đuaĭ tui laih hrŏm hăng Kâo nanao amăng tơlơi gleh tơnap Kâo. 29Tui anŭn, kar hăng Ama Kâo hơmâo jao laih kơ Kâo jing Pơtao Dêh Čar Ñu, Kâo ăt jao kơ ƀing gih kar hăng anŭn mơ̆n, 30kiăng kơ ƀing gih dưi ƀơ̆ng hăng mơñum pơpŭ pơyom hrŏm hăng Kâo amăng rơnŭk Dêh Čar Kâo laih anŭn dưi dŏ ƀơi grê pơtao kiăng phat kơđi git gai pluh-dua kơnung djuai ƀing Israel yơh.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Pêtrôs Či Hơngah Hĭ Ñu

(Mathiơ 26:31-35; Markôs 14:27-31; Yôhan 13:36-38)

31Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ Simôn tui anai, “Ơ Simôn, Simôn, anai nê, yang sat Satan rơkâo laih kiăng kơ lông lăng ƀing gih hrup hăng arăng tơpơi pơdai kiăng kơ pơđuaĭ hĭ hơkam yơh, 32samơ̆ Kâo hơmâo iâu laĭ laih brơi kơ ih, kiăng kơ ih ƀu rơngiă hĭ ôh tơlơi đaŏ ih. Tui anŭn, tơdang ih hơmâo wơ̆t glaĭ laih pơ Kâo tơdơi anŭn, brơi ih pơkơjăp bĕ ƀing ayŏng adơi ih.”
33Pêtrôs laĭ hăng Yêsu tui anai, “Ơ Khua ăh, kâo či nao dŏ amăng sang mơnă hrŏm hăng Ih wơ̆t tơdah djai hrŏm hăng Ih tŭ mơ̆n.” 34Yêsu laĭ glaĭ kơ Pêtrôs tui anai, “Ơ Pêtrôs, Kâo laĭ hăng ih, tơdang mlam kơñ hlâo kơ mơnŭ tơdjô̆, klâo wơ̆t mơtam yơh ih či hơngah ƀu thâo krăn ôh Kâo.”

Prap Pre Kiăng Kơ Hyu Pơtô

35Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ ƀing ding kơna pơjao Ñu tui anai, “Tơdang Kâo hơmâo pơkiaŏ laih ƀing gih nao hyu pơtô hlâo adih, Kâo pơtă laih kơ ƀing gih ƀu dưi djă̱ ba ôh kơdŭng prăk, kơdŭng gơnam, ƀôdah klĭ juă. Hlak anŭn, ƀing gih hơmâo kơƀah hơget gĕt mơ̆?” Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Ƀu kơƀah hơget gĕt ôh.”
36Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu dơ̆ng tui anai, “Samơ̆ bơ kơ ră anai, hlơi pô hơmâo kơdŭng prăk djă̱ ba bĕ laih anŭn hlơi pô hơmâo kơdŭng gơnam ăt djă̱ ba kar kaĭ mơ̆n. Hlơi pô ƀu hơmâo ôh đao, brơi ñu sĭ hĭ bĕ ao phyung ñu kiăng kơ blơi sa ƀĕ. 37Kâo pơhaih kơ ƀing gih, boh hiăp Ơi Adai khŏm či krep truh yơh kơ Kâo tui anai, ‘Ƀing arăng yap Ñu jing sa čô amăng ƀing sat ƀai.’ Djă̱ hơdơr bĕ abih bang tơlơi ƀing pô pơala čih lui hlâo laih kơ Kâo, sĭt či khŏm krep truh yơh.” 38Giŏng anŭn, ding kơna Ñu anŭn laĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, anai nê, hơmâo dua ƀĕ đao yơh anai.” Yêsu thâo krăn ƀing gơñu ƀu thâo hluh ôh kơ tơlơi anŭn, tui anŭn Ñu laĭ glaĭ tui anai, “Djŏp laih anŭn!”

Yêsu Iâu Laĭ Ƀơi Bŏl Čư̆ Ôliwơ

(Mathiơ 26:36-46; Markôs 14:32-42)

39Tơdơi kơ anŭn, Yêsu tơbiă nao pơ bŏl čư̆ Ôliwơ tui hăng tơlơi Ñu juăt ngă, laih anŭn ƀing ding kơna anŭn ăt nao hrŏm hăng Ñu mơ̆n. 40Tơdang Ñu nao truh laih pơ anih anŭn, Ñu laĭ hăng ƀing gơ̆ tui anai, “Iâu laĭ bĕ, kiăng kơ ƀing gih ƀu či lê̆ ôh amăng tơlơi plư.” 41Giŏng anŭn, Yêsu nao ataih mơ̆ng ƀing gơñu kơplăh wăh sa rơwang arăng dưi glŏm boh pơtâo, laih anŭn Ñu tŏ tơŭt iâu laĭ tui anai, 42“Ơ Ama ăh, tơdah djơ̆ tui hăng hơdră Ih kiăng, rơkâo kơ Ih mă pơđuaĭ hĭ bĕ kơčŏk ruă nuă anai mơ̆ng Kâo; kơđai glaĭ, ƀu djơ̆ tui hăng tơlơi Kâo kiăng ôh, samơ̆ tui hăng tơlơi Ih kiăng yơh, brơi jing bĕ.” 43Giŏng anŭn, hơmâo sa čô ling jang hiam mơ̆ng adai trŭn rai pơkơtang brơi kơ Ñu. 44Amăng tơlơi gleh rơmơ̆n anŭn, Yêsu iâu laĭ jai kơtang hloh dơ̆ng yơh, tơl ia hâŏ Ñu tơdjŏh trŭn ƀơi lŏn hrup hăng djŏh drah prŏng yơh.
45Tơdang Yêsu tơgŭ mơ̆ng tơlơi iâu laĭ laih, Ñu wơ̆t glaĭ pơ ƀing ding kơna Ñu laih anŭn ƀuh ƀing gơñu hlak dŏ pĭt. Ƀing gơñu gleh biă mă mơ̆ng tơlơi ƀing gơñu rơngot hơning. 46Tui anŭn, Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Yua hơget ƀing gih dŏ pĭt lĕ? Tơgŭ iâu laĭ bĕ, kiăng kơ ƀing gih ƀu či lê̆ ôh amăng tơlơi plư.”

Sa Tơpul Mơnuih Mă Yêsu

(Mathiơ 26:47-56; Markôs 14:43-50; Yôhan 18:3-11)

47Tơdang Yêsu ăt hlak dŏ pơhiăp, hơmâo sa tơpul mơnuih mơtam rai. Yudas, jing sa čô amăng pluh-dua čô ƀing ding kơna pơjao yơh, nao hlâo ba akŏ kơ abih bang ƀing gơñu. Ñu nao jĕ Yêsu kiăng kơ čum kơkuh Yêsu kiăng pơrơđah tơlơi gơyut gơyâo, 48samơ̆ Yêsu laĭ kơ ñu tui anai, “Ơ Yudas, yua hơget ih yua tơlơi phiăn čum kơkuh anai kiăng pơblư̆ hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih, lĕ?”
49Tơdang ƀing ding kơna nao hrŏm hăng Yêsu ƀuh tơlơi jĕ či truh, ƀing gơñu laĭ tui anai, “Ơ Khua hơi, ƀing gơmơi dưi blah glaĭ hăng ƀing gơñu hăng đao anai mơ̆?” 50Giŏng anŭn, sa čô amăng ƀing ding kơna pơjao kŏh hĭ pô hlŭn khua ngă yang prŏng hloh laih anŭn kŏh tơĭ hĭ tơngia gơ̆ gah hơnuă.
51Samơ̆ Yêsu laĭ, “Hơdôm anŭn yơh kơ tơlơi anai!” Laih anŭn Ñu ruaih pơsuaih hĭ tơngia pô hlŭn anŭn.
52Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp hăng ƀing hơmâo rai laih kiăng kơ mă Ñu, jing ƀing khua ngă yang prŏng, ƀing khua tơhan gak sang yang wơ̆t hăng ƀing kŏng tha, tui anai, “Ƀing gih djă̱ đao hăng gai tơlŏ rai mă Kâo kar hăng mă mơnuih tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng kơnŭk kơna hă? 53Amăng hrơi kŏm anai tơdang kâo dŏ hăng mơnuih lu wơ̆t hăng ƀing gih rĭm hrơi amăng Sang Yang, ƀing gih ƀu yơr tơngan mă kâo ôh. Samơ̆ anai jing mông găl gih laih anŭn tơlơi dưi kơtang ƀing git gai amăng tơlơi kơnăm mơmŏt yơh.”

Pêtrôs Hơngah Hĭ Yêsu Klâo Wơ̆t

(Mathiơ 26:57, 58, 69-75; Markôs 14:53, 54, 66-72; Yôhan 18:12-18, 25-27)

54Giŏng anŭn, ƀing gơñu mă Yêsu hăng ba nao pơ sang khua ngă yang prŏng hloh. Pêtrôs đuaĭ tui Yêsu kơnơ̆ng mơ̆ng ataih đôč. 55Laih kơ ƀing arăng pơtŏ apui tŏng krah wăl tơdron sang anŭn laih anŭn dŏ be̱r hrŏm hơbĭt pơ anŭn, Pêtrôs ăt dŏ be̱r hrŏm hăng ƀing gơñu mơ̆n. 56Hơmâo sa čô ding kơna đah kơmơi sang anŭn lăng pơñen kơ Pêtrôs dŏ be̱r pơdang apui pơ anŭn, ñu laĭ tui anai, “Pô anai ăt nao hrŏm hăng pô arăng mă anŭn mơ̆n.”
57Samơ̆ Pêtrôs hơngah hĭ tui anai, “Hơi, kâo ƀu thâo krăn Ñu ôh.”
58Tơdơi kơ anŭn ƀiă, hơmâo pô pơkŏn dơ̆ng thâo krăn Pêtrôs hăng laĭ tui anai, “Ih ăt jing sa čô amăng ƀing gŏp pô arăng mă anŭn mơ̆n.”
 Samơ̆ Pêtrôs laĭ glaĭ, “Hơi, ƀu djơ̆ kâo ôh.”
59Tơdơi kơ anŭn ƀiă truh kơ sa rơwang mông rơgao, ăt hơmâo mơ̆n sa čô pô pơkŏn dơ̆ng pơhaih kơ Pêtrôs tui anai, “Sĭt yơh, pô anai ăt nao hrŏm hăng pô arăng mă anŭn mơ̆n, yuakơ ñu ăt jing mơnuih mơ̆ng kwar Galilê.”
60Samơ̆ Pêtrôs laĭ glaĭ tui anai, “Hơi čơkơi anŭn, kâo ƀu thâo hluh ôh hơget tơlơi ih pơhiăp!” Tơdang Pêtrôs ăt hlak dŏ pơhiăp, mơnŭ tơdjô̆ yơh. 61Giŏng anŭn, Khua Yang nger glaĭ lăng kơ Pêtrôs. Tui anŭn, Pêtrôs hơdơr glaĭ boh hiăp Khua Yang hơmâo laĭ lui hlâo laih kơ ñu tui anai, “Mlam kơñ hlâo kơ mơnŭ tơdjô̆, klâo wơ̆t mơtam yơh ih či hơngah hĭ ƀu thâo krăn ôh Kâo.” 62Giŏng anŭn, Pêtrôs tơbiă pơ rơngiao hia rơngot hơning biă mă.

Ƀing Tơhan Djik Djak Hơmăt Taih Yêsu

(Mathiơ 26:67, 68; Markôs 14:65)

63Hlak anŭn, ƀing tơhan dŏ gak Yêsu djik djak hơmăt taih Gơ̆. 64Ƀing gơñu go̱m hĭ mơta Gơ̆ laih anŭn tơña tui anai, “Pơhiăp lui hlâo bĕ yuakơ ih yap ih pô jing pô pơala! Hlơi jing pô hơmâo taih laih ŏng lĕ?” 65Laih anŭn ƀing gơñu pơhiăp kơ Yêsu lu tơlơi ƀrưh mơhiăh pơkŏn pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Gơ̆.

Yêsu Gah Anăp Ƀing Phat Kơđi Yehudah

66Tơdang hrơi mơguah laih, ƀing kŏng tha ană plei Yehudah, ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt pơƀut glaĭ pơ anŭn. Giŏng anŭn, ƀing gak ba Yêsu pơ anih gơñu pơƀut glaĭ kiăng kơ phat kơđi. 67Laih anŭn ƀing khua anŭn tơña tui anai, “Tơdah ih jing Messiah sĭt, pơhaih bĕ kơ ƀing gơmơi thâo!”
 Samơ̆ Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Tơdah kâo pơhaih kơ ƀing gih tơlơi anŭn, ƀing gih ƀu či đaŏ ôh;
68laih anŭn tơdah kâo tơña yua hơget ƀing gih ƀu đaŏ ôh, ƀing gih kŏn či laĭ glaĭ lơi. 69Samơ̆ čơdơ̆ng mơ̆ng ră anai, Ană Mơnuih či dŏ be̱r gah hơnuă kơ Ơi Adai Dưi Kơtang jing anih pơpŭ pơyom yơh.”
70Abih bang ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Tui anŭn, ih jing Ană Ơi Adai hă?”
 Laih anŭn Yêsu laĭ glaĭ, “Sĭt tui hăng gih pô hơmâo pơhiăp yơh.”
71Giŏng anŭn, ƀing gơñu laĭ tui anai, “Hơdôm čô ngă gơ̆ng jơlan dơ̆ng ƀing ta kiăng kơ hơduah sem lĕ? Ta pô hơmâo hơmư̆ laih mơ̆ng amăng bah ñu pô.”