22

Sự đau đớn, sự chết, và sự sống lại của Đức Chúa Jêsus

(Từ đoạn 22 đến đoạn 24)

Sự lập mưu của các thầy tế lễ

(Mat 26:1-5; Mac 14:1,2; Gi 11:45-53)

1 Ngày lễ ăn bánh không men tức là lễ Vượt qua đến gần. 2 Các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo tìm phương đặng giết Đức Chúa Jêsus; vì họ sợ dân.

Đứa phản Chúa

(Mat 26:14-16; Mac 14:10,11)

3 Vả, quỉ Sa-tan ám vào Giu-đa, gọi là Ích-ca-ri-ốt, là người trong số mười hai sứ đồ, 4 nó đi kiếm các thầy tế lễ cả và các thầy đội, để đồng mưu dùng cách nào nộp Ngài cho họ. 5 Các người kia mừng lắm, hứa sẽ cho nó tiền bạc. 6 Nó đã ưng thuận với họ, bèn kiếm dịp tiện đặng nộp Đức Chúa Jêsus trong khi dân chúng không biết.

Lễ Tiệc thánh lập ra

(Mat 26:17-25; Mac 14:12-21; Gi 13:21-30)

7 Đến ngày lễ ăn bánh không men, là ngày người ta phải giết con sinh làm lễ Vượt qua, 8 Đức Chúa Jêsus sai Phi-e-rơ và Giăng đi, mà phán rằng: Hãy đi dọn lễ Vượt qua cho chúng ta ăn. 9 Hai người thưa rằng: Thầy muốn chúng tôi dọn lễ ấy tại đâu? 10 Ngài đáp rằng: Khi các ngươi vào thành, sẽ gặp một người mang vò nước; hãy theo người vào nhà, 11 và nói cùng chủ nhà rằng; Thầy phán cùng ngươi rằng: Phòng khách là chỗ ta sẽ ăn lễ Vượt qua với môn đồ ta ở đâu? 12 Chủ nhà sẽ chỉ cho một cái phòng rộng và cao, đồ đạc sẵn sàng; các ngươi hãy dọn ở đó. 13 Hai môn đồ đi, quả gặp những điều như Ngài đã phán, bèn dọn lễ Vượt qua.
14 Đến giờ, Ngài ngồi bàn ăn, các sứ đồ cùng ngồi với Ngài. 15 Ngài phán rằng: Ta rất muốn ăn lễ Vượt qua nầy với các ngươi trước khi ta chịu đau đớn. 16 Vì, ta nói cùng các ngươi, ta sẽ không ăn lễ nầy nữa cho đến khi lễ ấy được trọn trong nước Đức Chúa Trời. 17 Ngài bèn cầm chén, tạ ơn, rồi phán rằng: Hãy lấy cái nầy phân phát cho nhau. 18 Vì, ta nói cùng các ngươi, từ nay ta sẽ không uống trái nho nữa, cho tới khi nước Đức Chúa Trời đến rồi. 19 Đoạn, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn xong, bẻ ra phân phát cho môn đồ, mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, đã vì các ngươi mà phó cho; hãy làm sự nầy để nhớ đến ta. 20 Khi ăn xong, Ngài cũng làm như vậy, lấy chén đưa cho môn đồ, mà phán rằng: Chén nầy là giao ước mới trong huyết ta vì các ngươi mà đổ ra… 21 Vả lại, nầy, bàn tay kẻ phản ta ở gần ta, nơi bàn nầy. 22 Con người đi, theo như điều đã chỉ định; nhưng khốn cho người nầy phản Ngài! 23 Môn đồ bèn hỏi nhau trong bọn mình ai là người sẽ làm điều đó.

Sự biện luận trong môn đồ

(Mat 18:1; Mac 9:34; Lu 9:46)

24 Môn đồ lại cãi lẫy nhau, cho biết ai sẽ được tôn là lớn hơn hết trong đám mình. 25 Nhưng Ngài phán cùng môn đồ rằng: Các vua của các dân ngoại lấy phép riêng mình mà cai trị, những người cầm quyền cai trị được xưng là người làm ơn. 26 Về phần các ngươi, đừng làm như vậy; song ai lớn hơn trong các ngươi phải như kẻ rất nhỏ, và ai cai trị phải như kẻ hầu việc. 27 Vì một người ngồi ăn với một người hầu việc, ai là lớn hơn? Có phải là kẻ ngồi ăn không? Nhưng ta ở giữa các ngươi như kẻ hầu việc vậy. 28 Còn như các ngươi đã bền lòng theo ta trong mọi sự thử thách ta, 29 nên ta ban nước cho các ngươi, cũng như Cha ta đã ban cho ta vậy, 30 để các ngươi được ăn uống chung bàn trong nước ta, và được ngồi ngai để xét đoán mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên.

Lời bảo trước cho Phi-e-rơ

(Mat 26:31-35; Mac 14:27-31; Gi 13:36-38)

31 Hỡi Si-môn, Si-môn, nầy, quỉ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. 32 Song ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy, đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình. 33 Phi-e-rơ thưa rằng: Thưa Chúa, tôi sẵn lòng đi theo Chúa, đồng tù đồng chết. 34 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi Phi-e-rơ, ta nói cùng ngươi, hôm nay khi gà chưa gáy, ngươi sẽ ba lần chối không biết ta.
35 Đoạn, Ngài lại phán rằng: Khi ta đã sai các ngươi đi, không đem túi, bao, giày chi hết, các ngươi có thiếu gì không? Môn đồ thưa rằng: Không thiếu chi hết. 36 Ngài phán rằng: Nhưng bây giờ, ai có túi bạc, hãy lấy đi, ai có bao, cũng vậy; ai không có gươm, hãy bán áo ngoài đi mà mua. 37 Vì ta rao cho các ngươi, có lời chép rằng: Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ. Lời ấy phải ứng nghiệm về chính mình ta. Thật vậy, sự đã chỉ về ta hầu được trọn. 38 Các sứ đồ thưa rằng: Thưa Chúa, có hai thanh gươm đây. Ngài phán rằng: Ấy là đủ.

Vườn Ghết-sê-ma-nê. – Sự bắt Đức Chúa Jêsus

(Mat 26:36-56; Mac 14:32-50; Gi 18:3-11)

39 Đoạn, Đức Chúa Jêsus ra đi, lên núi Ô-li-ve theo như thói quen; các môn đồ cùng đi theo Ngài. 40 Khi đã đến nơi đó, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Hãy cầu nguyện, hầu cho các ngươi khỏi sa vào sự cám dỗ. 41 Ngài bèn đi khỏi các môn đồ, cách chừng liệng một cục đá, quì xuống mà cầu nguyện 42 rằng: Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy khỏi tôi! Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không theo ý tôi!… 43 Có một thiên sứ từ trên trời hiện xuống cùng Ngài, mà thêm sức cho Ngài. 44 Trong cơn rất đau thương, Ngài cầu nguyện càng thiết, mồ hôi trở nên như giọt máu lớn rơi xuống đất. 45 Cầu nguyện xong, Ngài đứng dậy trở lại cùng các môn đồ, thấy đương ngủ mê vì buồn rầu. 46 Ngài phán rằng: Sao các ngươi ngủ? Hãy đứng dậy cầu nguyện, để cho khỏi sa vào sự cám dỗ.
47 Khi Ngài còn đương phán, một lũ đông kéo đến. Tên Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, đi trước hết, lại gần Đức Chúa Jêsus đặng hôn Ngài. 48 Đức Chúa Jêsus hỏi rằng: Hỡi Giu-đa, ngươi lấy cái hôn để phản Con người sao? 49 Những người ở với Ngài thấy sự sắp xảy đến, bèn nói rằng: Thưa Chúa, chúng tôi nên dùng gươm đánh chăng? 50 Một người trong các sứ đồ đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm và chém đứt tai bên hữu. 51 Nhưng Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Hãy để cho họ đến thế! Ngài bèn rờ tai đầy tớ ấy, làm cho nó được lành. 52 Đoạn, Đức Chúa Jêsus phán cùng các thầy tế lễ cả, các thầy đội coi đền thờ, và các trưởng lão đã đến bắt Ngài, rằng: Các ngươi cầm gươm và gậy đến bắt ta, như bắt kẻ trộm cướp. 53 Hằng ngày ta ở trong đền thờ với các ngươi, mà các ngươi không ra tay bắt ta. Nhưng nầy là giờ của các người, và quyền của sự tối tăm vậy.

Đức Chúa Jêsus trước mặt Cai-phe. – Sự chối của Phi-e-rơ

(Mat 26:57-75; Mac 14:53-72; Gi 18:12-27)

54 Bấy giờ họ bắt Đức Chúa Jêsus đem đi, giải Ngài đến nhà thầy cả thượng phẩm. Phi-e-rơ đi theo Ngài xa xa. 55 Họ nhúm lửa giữa sân, rồi ngồi với nhau; Phi-e-rơ cũng ngồi giữa đám họ. 56 Một con đòi kia thấy Phi-e-rơ ngồi gần lửa, thì ngó chăm chỉ, mà nói rằng: Người nầy vốn cũng ở với người ấy. 57 Song Phi-e-rơ chối Đức Chúa Jêsus, nói rằng: Hỡi đàn bà kia, ta không biết người đó. 58 Một lát, có người khác thấy Phi-e-rơ, nói rằng: Ngươi cũng thuộc về bọn đó! Phi-e-rơ đáp rằng: Hỡi người, ta không phải thuộc về bọn đó đâu. 59 Độ cách một giờ, có kẻ khác đề quyết như vậy mà rằng: Thật người nầy cũng ở với Jêsus, vì người là dân Ga-li-lê. 60 Nhưng Phi-e-rơ cãi rằng: Hỡi người, ta không biết ngươi nói chi! Đương lúc Phi-e-rơ còn nói, thì gà liền gáy; 61 Chúa xây mặt lại ngó Phi-e-rơ. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa đã phán cùng mình rằng: Hôm nay trước khi gà chưa gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần; 62 rồi đi ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
63 Vả, những kẻ canh Đức Chúa Jêsus nhạo báng và đánh Ngài; 64 che mặt Ngài lại, rồi nói rằng: Hãy nói tiên tri đi, hãy đoán xem ai đánh ngươi! 65 Họ lại nhiếc móc Ngài nhiều lời khác nữa.
66 Đến sáng ngày, các trưởng lão trong dân, các thầy tế lễ cả, và các thầy thông giáo nhóm lại, rồi sai đem Đức Chúa Jêsus đến nơi tòa công luận. 67 Họ hỏi Ngài rằng: Nếu ngươi phải là Đấng Christ, hãy xưng ra cho chúng ta. Ngài đáp rằng: Nếu ta nói, thì các ngươi không tin; 68 nếu ta tra gạn các ngươi, thì các ngươi không trả lời. 69 Nhưng từ nay về sau, Con người sẽ ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời. 70 Ai nấy đều hỏi rằng: Vậy, ngươi là Con Đức Chúa Trời sao? Ngài đáp rằng: Chính các ngươi nói ta là Con Ngài. 71 Họ bèn nói rằng: Chúng ta nào có cần chứng cớ nữa làm chi? Chính chúng ta đã nghe từ miệng nó nói ra rồi.

22

Klei Trông Čhai Čiăng Ngă kơ Yêsu

(Mat 26:1-5; Mark 14:1-2; Yôh 11:45-53)

1 Hruê Knăm Ƀơ̆ng Kpŭng Amâo Mâo Kpei arăng pia Knăm Klei Găn, giăm truh leh. 2Phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn phung khua čih hră duah êlan bi mdjiê Yêsu hŏng klei hgăm; kyuadah diñu huĭ kơ phung ƀuôn sang.

Y-Yuđas Bi Mguôp Lhiăr kơ Yêsu

(Mat 26:14-16; Mark 14:10-11)

3Hlăk anăn Satan mŭt hlăm Y-Yuđas arăng pia Iskariôt, sa čô hlăm phung pluh dua čô ƀĭng kna. 4Y-Yuđas nao bi trông čhai hŏng phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn hŏng phung khua kahan Sang Kkuh Mpŭ si klei ñu dưi lhiăr kơ Yêsu. 5Phung anăn hơ̆k mơak, leh anăn ƀuăn brei prăk kơ ñu. 6Snăn ñu tŭ klei anăn, leh anăn duah hruê găl dưi jao Yêsu kơ digơ̆ êjai mnuih lu amâo thâo ôh.

Yêsu Mkra Ƀơ̆ng Knăm Klei Găn

(Mat 26:17-25; Mark 14:12-21; Yôh 13:21-30)

7Hruê Ƀơ̆ng Kpŭng Amâo Mâo Kpei truh leh, hruê anăn arăng bhiăn koh bi mdjiê êđai biăp myơr kơ Knăm Klei Găn. 8Snăn Yêsu tiŏ nao Y-Pêtrôs leh anăn Y-Yôhan, lač, “Nao bĕ mkra Knăm Klei Găn, čiăng kơ drei dưi ƀơ̆ng.” 9Diñu lač kơ Yêsu, “Ti anôk ih čiăng kơ hmei mkra klei ƀơ̆ng Knăm Klei Găn?” 10Yêsu lač kơ diñu, “Nĕ anei, tơdah diih mŭt leh hlăm ƀuôn, sa čô êkei djă abŭ êa srăng tuôm hŏng diih. Tui hlue gơ̆, mŭt hlăm sang gơ̆ mŭt, 11leh anăn lač kơ pô sang, ‘Nai lač kơ ih, “Ti adŭ kâo srăng ƀơ̆ng Knăm Klei Găn mbĭt hŏng phung ƀĭng kna kâo?” ’ 12Leh anăn ñu srăng ktrâo brei kơ diih sa boh adŭ prŏng tal dlông mprăp leh. Tinăn yơh diih mkra.” 13Diñu đuĕ nao leh anăn ƀuh klei anăn tui si Yêsu lač leh kơ diñu; leh anăn diñu mkra klei ƀơ̆ng Knăm Klei Găn.

Klei Ƀơ̆ng Mnăm Sĭt Suôr

(Mat 26:26-30; Mark 14:22-26; I Kôr 11:23-25)

14Tơdah mông truh leh, Ñu dôk gŭ đih čiêng ti jhưng, leh anăn phung khua ƀĭng kna mbĭt hŏng Ñu. 15Ñu lač kơ digơ̆, “Kâo mâo leh klei čiăng snăk ƀơ̆ng Knăm Klei Găn anei mbĭt hŏng diih êlâo kơ kâo tŭ klei knap mñai. 16Kyuadah kâo hưn kơ diih, kâo amâo srăng lŏ ƀơ̆ng Knăm Klei Găn ôh tơl klei yuôm ñu srăng bi sĭt hlăm ƀuôn ala mtao Aê Diê.” 17Ñu mă sa boh atŏ, leh wah lač klei bi mni, Ñu lač, “Mă atŏ anei leh anăn bi mbha hdơ̆ng diih pô. 18Kyuadah kâo hưn kơ diih, mơ̆ng anei kơ anăp kâo amâo srăng lŏ mnăm ôh êa boh kriăk ƀâo tơl ƀuôn ala mtao Aê Diê truh.” 19Leh anăn Ñu mă kpŭng, tơdah leh wah lač klei bi mni, Ñu kjoh kpŭng anăn leh anăn brei kơ digơ̆, lač, “Anei jing asei mlei kâo brei leh kyua diih. Ngă snei čiăng bi hdơr kơ kâo.” 20 Leh ƀơ̆ng Ñu mă atŏ msĕ mơh leh anăn lač, “Atŏ anei jing klei bi mguôp mrâo hlăm êrah kâo tuh leh kyua diih. 21 Ƀiădah nĕ anei, kngan pô lhiăr kơ kâo dôk mbĭt hŏng kâo ti jhưng. 22Kyuadah Anak Mnuih srăng nao tui si Aê Diê čuăn leh kơ Ñu; ƀiădah knap mñai yơh kơ pô lhiăr kơ Ñu!” 23Leh anăn digơ̆ dơ̆ng bi êmuh hdơ̆ng digơ̆ hlei hlăm phung digơ̆ srăng ngă klei anăn.

Klei Bi Mgăl kơ Hlei Pô Jing Prŏng Hĭn

24 Mâo klei bi mgăl mơh hdơ̆ng phung ƀĭng kna hlei hlăm phung diñu arăng srăng yap prŏng hĭn. 25Yêsu lač kơ diñu, “Phung mtao phung tue yua klei dưi kiă kriê digơ̆; leh anăn phung mâo klei dưi hŏng digơ̆ arăng pia phung ngă jăk. 26 Ƀiădah amâo djŏ snăn ôh hdơ̆ng diih; brei pô prŏng hĭn kơ jih jang hlăm phung diih jing msĕ si điêt hĭn kơ jih jang, leh anăn brei pô kiă kriê jing msĕ si dĭng buăl. 27 Kyuadah hlei pô jing prŏng hĭn, pô dôk gŭ huă ƀơ̆ng, amâodah pô mdơ̆ng mnơ̆ng ƀơ̆ng huă? Amâo djŏ hĕ jing pô dôk gŭ huă ƀơ̆ng? Ƀiădah kâo dôk ti krah diih msĕ si sa čô dĭng buăl mdơ̆ng mnơ̆ng ƀơ̆ng huă.
28Diih jing phung dôk leh mbĭt hŏng kâo hlăm klei lông dlăng truh kơ kâo. 29Msĕ si Ama kâo jao leh kơ kâo sa boh ƀuôn ala mtao, snăn mơh kâo jao kơ diih, 30 čiăng kơ diih dưi huă mnăm ti jhưng huă kâo hlăm ƀuôn ala mtao kâo, leh anăn dôk gŭ ti jhưng mtao phat kđi phung pluh dua găp djuê Israel.”

Yêsu Hưn Êlâo Klei Y-Pêtrôs Srăng Hngah kơ Ñu

(Mat 26:31-35; Mark 14:27-31; Yôh 13:36-38)

31“Ơ Y-Simôn, Y-Simôn, nĕ anei Satan akâo leh klei dưi čiăng hdei diih msĕ si mdiê ƀlê. 32Ƀiădah kâo wah lač leh kơ ih, čiăng kơ klei ih đăo amâo awăt ôh. Leh anăn tơdah ih lŏ wĭt kơ kâo, brei ih bi kjăp phung ayŏng adei ih.” 33Y-Pêtrôs lač kơ Ñu, “Ơ Khua Yang, kâo kăp nao mbĭt hŏng ih kơ war mnă kơ klei djiê dưn.” 34Yêsu lač, “Ơ Y-Pêtrôs, kâo hưn kơ ih, hruê anei mnŭ amâo srăng kdjô̆ ôh tơl ih hngah thâo kral kâo tlâo bliư̆.”

Kdŭng Prăk, Kdô Pioh Mnơ̆ng, leh anăn Đao Gưm

35 Leh anăn Yêsu lač kơ digơ̆, “Tơdah kâo tiŏ nao diih amâo mâo kdŭng prăk amâodah kdô, amâodah klĭt juă, mâo mơ̆ mnơ̆ng diih kƀah?” Digơ̆ lač, “Hơăi.” 36Ñu lač kơ digơ̆, “Ƀiădah ară anei, brei hlei pô mâo kdŭng prăk mă dŏ anăn, leh anăn mă kdô msĕ mơh; leh anăn hlei pô amâo mâo đao gưm ôh, brei gơ̆ čhĭ ao kpal gơ̆ leh anăn blei sa ƀĕ đao gưm. 37 Kyuadah kâo hưn kơ diih, Klei Aê Diê Blŭ čih leh anei srăng bi sĭt hlăm kâo, ‘Arăng yap Ñu mbĭt hŏng phung soh;’ kyuadah klei čih leh djŏ kơ kâo srăng mâo klei bi sĭt.” 38Digơ̆ lač, “Ơ Khua Yang, nĕ anei dua ƀĕ đao gưm.” Ñu lač kơ digơ̆, “Djăp leh.”

Yêsu Wah Lač Ti Čư̆ Ôliwơ

(Mat 26:36-46; Mark 14:32-42)

39Yêsu kbiă leh anăn nao kơ Čư̆ Ôliwơ tui si klei Ñu khăng ngă; leh anăn phung ƀĭng kna Ñu tui hlue Ñu. 40Tơdah Ñu truh leh kơ anôk anăn, Ñu lač kơ digơ̆, “Wah lač bĕ, čiăng kơ diih amâo lĕ hlăm klei mplư ôh.” 41Leh anăn Ñu lŏ nao kbưi mơ̆ng digơ̆ hlăm brô sa wang bhĭr boh tâo, leh anăn čuôn kơŭt wah lač snei, 42“Ơ Ama, tơdah ih čiăng, mă mđuĕ hĕ atŏ klei knap mñai anei mơ̆ng kâo; ƀiădah tui si ih čiăng, amâo djŏ tui si kâo čiăng ôh.” 43Leh anăn sa čô dĭng buăl jăk mơ̆ng adiê bi êdah kơ Ñu čiăng bi ktang Ñu. 44Hlăm klei ênguôt ktrŏ, Ñu wah lač ktang hĭn; leh anăn êa kơhŏ Ñu jing msĕ si kdrah êrah lĕ ti lăn. 45Leh wah lač, Ñu kgŭ nao kơ phung ƀĭng kna. Ñu ƀuh digơ̆ dôk pĭt leh kyua klei ênguôt. 46Leh anăn Ñu lač kơ digơ̆, “Si ngă diih dôk pĭt lĕ? Kgŭ wah lač bĕ, čiăng kơ diih amâo lĕ hlăm klei mplư ôh.”

Arăng Mă Čăp Yêsu

(Mat 26:47-56; Mark 14:43-50; Yôh 18:3-11)

47Êjai Yêsu ăt dôk blŭ, sa phung lu truh; pô arăng bi anăn Y-Yuđas, sa čô hlăm phung pluh dua čô, atăt phung anăn. Ñu nao giăm Yêsu čiăng čŭm gơ̆. 48Yêsu lač kơ ñu, “Ơ Y-Yuđas, hŏng klei čŭm hĕ ih lhiăr kơ Anak Mnuih?” 49Tơdah phung mbĭt hŏng Yêsu ƀuh klei dơ̆ng truh, digơ̆ lač, “Ơ Khua Yang, hmei srăng koh hŏng đao gưm mơ̆?” 50Leh anăn sa čô hlăm phung digơ̆ koh dĭng buăl khua ngă yang prŏng djŏ ti knga hnuă gơ̆ tơl tloh. 51Ƀiădah Yêsu lač, “Lui bĕ! Đăm lŏ koh ôh!” Yêsu ruêh knga mnuih anăn leh anăn bi hlao gơ̆. 52Leh anăn Yêsu lač kơ phung knơ̆ng khua ngă yang, phung khua kahan kiă sang kkuh mpŭ, leh anăn phung khua mduôn hriê mă Ñu, “Diih hriê mă kâo djă đao gưm leh anăn giê msĕ si čiăng mă sa čô mnuih knĕ. 53 Êjai kâo dôk mbĭt hŏng diih grăp hruê hlăm sang kkuh mpŭ, diih amâo mă kâo ôh. Ƀiădah ară anei jing mông diih leh anăn klei myang klei mmăt.”

Y-Pêtrôs Hngah kơ Yêsu

(Mat 26:57-58,69-75; Mark 14:53-54,66-72; Yôh 18:12-18,25-27)

54Diñu mă čăp Yêsu leh anăn atăt ba gơ̆ mŭt hlăm sang khua ngă yang prŏng. Y-Pêtrôs tui hlue mơ̆ng kbưi. 55Tơdah diñu kuč pui ti krah wăl sang leh anăn dôk gŭ mbĭt, Y-Pêtrôs nao dôk gŭ mbĭt hŏng diñu. 56Êjai Y-Pêtrôs dôk gŭ giăm pui, sa čô dĭng buăl mniê dôk dlăng kơ gơ̆ amâo kƀreh ală ôh, leh anăn lač, “Êkei anei msĕ mơh dôk mbĭt hŏng ñu leh.” 57Ƀiădah Y-Pêtrôs hngah leh anăn lač, “Ơ mniê, kâo amâo thâo kral ñu ôh.” 58Ƀiă riă tinăn, sa čô mkăn ƀuh gơ̆ leh anăn lač, “Ih msĕ mơh jing sa čô hlăm phung anăn!” Ƀiădah Y-Pêtrôs lač, “Ơ êkei, kâo amâo jing phung anăn ôh.” 59Hlăm brô sa mông êdei tinăn mâo sa čô mkăn lač, “Sĭt nik êkei anei msĕ mơh dôk leh mbĭt hŏng Yêsu, kyuadah ñu jing sa čô mnuih čar Galilê.” 60Ƀiădah Y-Pêtrôs lač, “Ơ êkei, kâo amâo thâo ôh ya klei ih lač!” Hlăk anăn mtam êjai Y-Pêtrôs ăt dôk blŭ, mnŭ knô kdjô̆. 61Khua Yang wir dlăng kơ Y-Pêtrôs. Y-Pêtrôs hdơr kơ klei Khua Yang blŭ leh kơ ñu, “Hruê anei êlâo mnŭ knô kdjô̆, ih srăng hngah kơ kâo tlâo bliư̆.” 62Y-Pêtrôs kbiă leh anăn hia ênguôt snăk.

Arăng Mưč leh anăn Čăm Yêsu

(Mat 26:67-68; Mark 14:65)

63Phung mnuih kiă Yêsu mưč kơ gơ̆ leh anăn čăm gơ̆. 64Diñu guôm ƀô̆ gơ̆ leh anăn êmuh gơ̆, “Đăo bĕ, hlei pô čăm ih?” 65Leh anăn diñu blŭ lu klei dlao wač mkăn kơ Yêsu.

Yêsu Dôk Ti Anăp Phung Khua Phat Kđi

(Mat 26:59-66; Mark 14:55-64; Yôh 18:19-24)

66Tơdah adiê mngač leh, phung khua mduôn hlăm phung ƀuôn sang, phung knơ̆ng khua ngă yang, leh anăn phung khua čih hră bi kƀĭn mbĭt; leh anăn diñu atăt ba Yêsu ti anăp phung khua phat kđi diñu. Diñu lač, 67“Tơdah ih jing Yang Krist, hưn bĕ kơ hmei.” Ƀiădah Yêsu lač kơ diñu, “Tơdah kâo hưn klei anăn kơ diih, diih amâo srăng đăo ôh. 68Leh anăn tơdah kâo êmuh diih, diih amâo srăng lŏ wĭt lač ôh. 69Ƀiădah mơ̆ng anei kơ anăp Anak Mnuih srăng dôk gŭ tĭng hnuă Aê Diê Pô Myang.” 70Jih jang diñu lač, “Snăn ih jing Anak Aê Diê hĕ?” Yêsu lač kơ phung anăn, “Diih lač leh hlei kâo jing.” 71Snăn diñu lač, “Ya klei hưn drei lŏ čiăng? Drei pô hmư̆ leh klei anăn mơ̆ng ƀăng êgei ñu pô.”