8

Các Nữ Môn Đệ

1Sau đó, Đức Giê-su cứ đi từ thành này sang thành khác, từ làng nọ qua làng kia để truyền giảng Phúc Âm về Nước Đức Chúa Trời. 2Mười hai sứ đồ theo Ngài cùng với các phụ nữ đã từng được Ngài đuổi quỷ, chữa bệnh: Ma-ri còn gọi là Ma-đơ-len, người được Chúa giải thoát khỏi bảy quỷ dữ, 3Giô-a-na, vợ của Chu-xa, người quản lý hoàng cung Hê-rốt, Su-sa-na, và nhiều bà khác nữa. Họ dùng tài sản mình phục vụ Chúa và các môn đệ Ngài.

Người Gieo Giống

(Mat 13:1-23; Mác 4:1-20)

4Trong khi một đám đông tụ họp, và những người từ các thành kéo nhau đến với Đức Giê-su, Ngài dùng một ngụ ngôn dạy họ: 5“Một người kia đi gieo giống. Đang khi gieo, một số hạt rơi dọc đường, bị dẫm lên rồi chim ăn hết. 6Một số khác rơi nhằm chỗ đá sỏi, mọc lên rồi khô héo vì thiếu ẩm ướt.
7Hạt khác rơi vào giữa nơi gai góc, mọc lên chung với gai và bị nghẹt. 8Nhưng một số khác nữa rơi vào đất tốt, mọc lên, kết hạt gấp trăm lần.” Khi nói những điều này, Ngài kêu lớn: “Ai có tai, hãy lắng nghe!”
9Các môn đệ hỏi Ngài ngụ ngôn ấy có nghĩa gì. 10Ngài đáp: “Đức Chúa Trời cho các con hiểu biết huyền nhiệm của Nước Đức Chúa Trời, còn những người khác phải dùng ngụ ngôn để họ,
  Nhìn mà không thấy,
   Nghe mà chẳng hiểu.”
11“Đây là ý nghĩa ngụ ngôn ấy: Hạt giống là Lời Đức Chúa Trời; 12Hạt giống rơi dọc đường là những người nghe nhưng rồi bị quỷ vương đến cướp lời ấy khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu rỗi. 13Hạt giống rơi nhằm chỗ đá sỏi là những người nghe và vui mừng tiếp nhận lời Chúa, nhưng không đâm rễ, chỉ tin một thời gian, đến khi gặp thử thách thì bỏ cuộc. 14Hạt giống rơi vào nơi gai góc là người đã nghe, nhưng trong cuộc sống, bị những nỗi lo lắng, giàu sang và lạc thú của cuộc đời làm cho nghẹt không trưởng thành được. 15Nhưng hạt giống rơi vào đất tốt là những người với tấm lòng thanh cao, tốt đẹp nghe đạo, giữ vững đạo và nhờ kiên trì sinh kết quả.”

Cái Đèn

(Mác 4:21-25)

16“Không ai thắp đèn rồi đem giấu trong thùng hay để dưới gầm giường, nhưng đặt trên giá đèn để ai bước vào cũng thấy ánh sáng. 17Vì không có điều gì giấu kín mà sẽ không bị tỏ lộ; chẳng có điều gì giữ bí mật mà sẽ không biết và bị phơi bày. 18Vậy, các con hãy cẩn thận về cách mình nghe. Ai có sẽ được cho thêm; ai không có, cũng sẽ bị lấy luôn điều họ tưởng mình có.”

Mẹ Và Các Em Chúa Giê-su

(Mat 12:46-50; Mác 3:31-35)

19Mẹ và các em Đức Giê-su đến cùng Ngài, nhưng vì đám đông nên không thể gặp Ngài được. 20Có người thưa với Ngài: “Mẹ và các em Thầy đang đứng bên ngoài, muốn gặp Thầy.”
21Ngài đáp: “Mẹ Ta và anh em Ta là những người nghe và làm theo lời Đức Chúa Trời!”

Thuyền Gặp Bão

(Mat 8:23-27; Mác 4:35-41)

22Một hôm, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và nói: “Chúng ta hãy qua bên kia bờ hồ!” Vậy họ chèo thuyền đi. 23Đang khi thuyền đi thì Ngài ngủ. Một trận cuồng phong thổi vào hồ; thuyền bắt đầu ngập nước, thật là nguy hiểm.
24Các môn đệ đến đánh thức Ngài và thưa: “Thầy ơi! Thầy ơi! Chúng ta chết mất!” Nhưng Ngài thức dậy, quở gió và sóng, thì sóng gió lặng yên. 25Ngài trách các môn đệ: “Đức tin các con ở đâu?” Họ vừa sợ vừa kinh ngạc, bảo nhau: “Ngài là ai mà ra lệnh cho sóng gió thì chúng vâng theo?”

Người Bị Quỷ Ám

(Mat 8:28-34; Mác 5:1-20)

26Họ chèo thuyền đến vùng Giê-ra-sê, đối ngang Ga-li-lê. 27Ngài vừa lên bờ, một người ở thành ấy bị quỷ ám đến gặp Ngài. Lâu nay, anh không mặc quần áo, cũng không ở trong nhà nhưng ở ngoài mồ mả. 28Khi thấy Đức Giê-su, anh gào thét, quỳ xuống trước Ngài, kêu lớn: “Lạy Đức Giê-su, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, tôi có can hệ gì với Ngài đâu? Tôi van Ngài, xin đừng hành hạ tôi,” 29vì Đức Giê-su ra lệnh cho tà linh xuất khỏi anh. Nhiều lần quỷ nhập, dù dùng cùm xích và canh giữ, anh vẫn bẻ xiềng tháo cùm và bị quỷ dẫn ra những nơi đồng hoang.
30Đức Giê-su hỏi nó: “Ngươi tên gì?” Nó thưa: “Đạo binh!” Vì anh này bị nhiều quỷ ám. 31Các quỷ cứ nài xin Ngài đừng truyền lệnh bắt chúng xuống vực sâu.
32Ở đó, có một bầy heo rất đông đang ăn trên đồi. Chúng xin Ngài cho phép nhập vào bầy heo, Ngài chấp thuận. 33Các quỷ ra khỏi người, nhập vào bầy heo. Bầy heo liền lao đầu từ bờ vực xuống hồ chết chìm cả.
34Các kẻ chăn heo thấy việc xảy ra, thì bỏ chạy và thuật lại cho người trong thành phố và vùng thôn quê. 35Dân chúng kéo ra xem. Khi đến gần Đức Giê-su, họ thấy người mà quỷ vừa xuất đang ngồi dưới chân Ngài, quần áo chỉnh tề, tâm trí tỉnh táo, thì sợ hãi. 36Những người đã chứng kiến thuật lại cho họ nghe người bị quỷ ám đã được chữa lành như thế nào. 37Tất cả dân chúng quanh vùng Giê-ra-sê đều xin Ngài đi nơi khác vì họ quá sợ hãi. Vậy, Ngài xuống thuyền trở về.
38Người được giải thoát khỏi quỷ năn nỉ xin đi theo Ngài, nhưng Ngài cho anh về, bảo: 39“Con hãy về nhà mình, thuật lại những việc Đức Chúa Trời đã làm cho con!” Vậy, anh ấy đi khắp thành, công bố những việc Đức Giê-su đã làm cho mình.

Con Gái Giai-ru Và Người Đàn Bà Bị Xuất Huyết

(Mat 9:18-26; Mác 5:21-43)

40Khi Đức Giê-su trở về, một đám đông đón rước Ngài vì tất cả đều đang trông đợi Ngài. 41Một người tên Giai-ru, làm quản lý hội đường, đến quỳ dưới chân Ngài và nài xin Ngài vào nhà mình, 42vì đứa con gái một của ông, độ mười hai tuổi, đang hấp hối. Khi Ngài đang đi, đoàn dân đông lấn ép Ngài. 43Có một người đàn bà bị xuất huyết đã mười hai năm, không ai chữa trị được. 44Bà đến sau lưng Ngài, sờ vào gấu áo Ngài; lập tức máu liền cầm lại.
45Đức Giê-su hỏi: “Ai sờ Ta vậy?” Khi mọi người đều chối, Phê-rơ nói: “Thưa Thầy, dân chúng đông đảo đang lấn ép, xô đẩy Thầy!”
46Nhưng Đức Giê-su đáp: “Có người đã sờ đến Ta, vì Ta biết có quyền năng từ Ta phát ra.”
47Khi thấy không thể nào giấu được nữa, người đàn bà run rẩy đến quỳ trước Ngài. Trước mặt dân chúng bà nói rõ vì sao bà sờ gấu áo Ngài và tức khắc được chữa lành như thế nào. 48Ngài bảo bà: “Con gái Ta ơi, đức tin con đã chữa lành con, hãy đi bình an!”
49Ngài còn đang nói, có người nhà viên quản lý hội đường đến báo tin: “Con gái ông chết rồi! Đừng phiền Thầy nữa!”
50Nhưng khi nghe vậy, Đức Giê-su bảo Giai-ru: “Đừng sợ! Chỉ tin mà thôi; con gái ông sẽ được cứu sống!”
51Đến nhà Giai-ru, Ngài không cho ai vào cả, ngoại trừ Phê-rơ, Giăng, Gia-cơ và cha mẹ em bé. 52Mọi người đang khóc lóc, tiếc thương đứa bé, Ngài bảo: “Đừng khóc! Đứa bé không chết đâu, nó chỉ ngủ thôi!”
53Họ chế nhạo Ngài vì biết nó đã chết. 54Nhưng Ngài nắm tay nó truyền gọi: “Con ơi, hãy dậy!” 55Linh hồn trở về, em bé liền đứng dậy. Ngài bảo cho em bé ăn. 56Cha mẹ em bé kinh ngạc vô cùng nhưng Ngài căn dặn họ đừng nói cho ai biết việc vừa xảy ra.

8

Ƀing Đah Kơmơi Djru Kơ Yêsu

1Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Yêsu găn nao amăng lu plei pla kiăng kơ pơhaih laih anŭn pơtô pơblang Tơlơi Pơthâo Hiam kơ tơlơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai. Ƀing pluh-dua čô ding kơna pơjao ăt nao hrŏm hăng Ñu 2wơ̆t hăng đơđa ƀing đah kơmơi mơ̆n, jing ƀing Ñu hơmâo pơklaih laih mơ̆ng yang sat ƀôdah hơmâo pơsuaih brơi laih tơlơi duăm ruă. Sa čô amăng ƀing gơñu jing HʼMari arăng pơanăn Magdalênê; ñu yơh jing pô hơmâo tơjuh drơi yang sat tơbiă đuaĭ laih. 3Pô pơkŏn jing HʼYôanna bơnai Khuzas, pô khua ding kơna gai bruă amăng sang khua tring Hêrôd. HʼSusanna wơ̆t hăng lu ƀing đah kơmơi pơkŏn dơ̆ng ăt nao hrŏm hăng ƀing gơñu mơ̆n, djru gơnam ƀơ̆ng mơ̆ng gơnam ƀing gơ̆ pô yơh.

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Pô Sai Pơjĕh

(Mathiơ 13:1-9; Markôs 4:1-9)

4Giŏng anŭn, tơdang ƀing mơnuih lu mơ̆ng lu plei pla rai pơtŭm hrŏm hơbĭt hăng Yêsu, Ñu pơtô laĭ kơ ƀing gơ̆ tơlơi pơhơmutu anai:
5“Hơmâo sa čô mơnuih sai nao sai pơjĕh pơdai ñu. Tơdang ñu sai, đơđa pơjĕh pơdai lê̆ ƀơi tơlo̱ng jơlan, arăng rơbat juăt hĭ gah yŭ plă̱ tơkai laih anŭn čim brĭm hăng adai rai čŏh ƀơ̆ng hĭ. 6Hơmâo đơđa pơjĕh lê̆ ƀơi lŏn rơga, tơdang pơjĕh anŭn đăh čăt đĭ, ñu gliu hĭ mơtam yơh yuakơ kơƀah kơhŭl ia. 7Hơmâo đơđa pơjĕh pơkŏn lê̆ amăng khul rơ̆k drơi laih anŭn rơ̆k drơi anŭn čăt đĭ hrŏm hăng pơjĕh laih anŭn ket hĭ pơjĕh anŭn. 8Hơmâo đơđa pơjĕh pơkŏn dơ̆ng lê̆ djơ̆ ƀơi lŏn hiam, ñu čăt đĭ mơtam laih anŭn pơtơbiă rai boh sa-rơtuh wơ̆t lu hloh yơh.” Tơdang Ñu ruai laih tơlơi anŭn, Ñu pơhiăp kraih tui anai, “Hlơi pô amăng ƀing gih hơmâo tơngia kiăng kơ hơmư̆, brơi ñu pơđi̱ng hơmư̆ bĕ!”

Tơhơnal Tơlơi Yêsu Yua Tơlơi Pơhơmutu

(Mathiơ 13:10-17; Markôs 4:10-12)

9Giŏng anŭn, ƀing ding kơna Yêsu tơña kơ Ñu hơget tơlơi pơhơmutu anŭn kiăng kơ pia. 10Laih anŭn Yêsu pơblang glaĭ, “Kơ ƀing gih Ơi Adai hơmâo brơi tơlơi dưi thâo hluh laih tơlơi bruă yom hơgŏm kơ Dêh Čar Ơi Adai, samơ̆ kơ ƀing pơkŏn, Kâo yua tơlơi pơhơmutu kiăng pơhiăp hăng ƀing gơñu, tui anŭn, ƀing gơñu či lăng samơ̆ ƀu ƀuh ôh, ƀing gơñu či hơmư̆ samơ̆ ƀu thâo hluh ôh.”

Yêsu Pơblang Tơlơi Pơhơmutu Pô Sai Pơjĕh

(Mathiơ 13:18-23; Markôs 4:13-20)

11Yêsu pơblang tŏ tui dơ̆ng, “Anai yơh jing tơlơi pơhơmutu anŭn kiăng laĭ: Pơjĕh pơdai jing boh hiăp Ơi Adai. 12Pơjĕh lê̆ ƀơi jơlan, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih hơmâo hơmư̆ laih, samơ̆ yang sat Satan rai mă pơđuaĭ hĭ boh hiăp anŭn mơ̆ng pran jua gơñu kiăng kơ ƀing gơñu ƀu đaŏ ôh laih anŭn kŏn dưi klaih hĭ lơi. 13Khul pơjĕh lê̆ ƀơi lŏn rơga, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih tơdang ƀing gơñu hơmư̆ laih boh hiăp Ơi Adai, ƀing gơñu mơak tŭ mă yơh, samơ̆ ƀing gơñu ƀu hơmâo akha kơjăp ôh. Yuakơ anŭn ƀing gơñu kơnơ̆ng đaŏ amăng ƀiă hrơi đôč laih anŭn tơdang tơlơi plư truh, ƀing gơñu hơngah lui hĭ mơtam yơh. 14Bơ kơ khul pơjĕh lê̆ ƀơi khul rơ̆k drơi, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih hơmư̆ laih boh hiăp Ơi Adai, samơ̆ tơdang ƀing gơñu hơdip hơdơ̆ng, ƀing gơñu pơhơngŏt hĭ gơñu pô yua mơ̆ng tơlơi ƀlơ̆ng bơngơ̆t, tơlơi pơdrŏng săh, tơlơi mơak hrăp lŏn tơnah ket hĭ tơlơi hơdip gah mơyang gơñu, tơl boh čroh gơñu mơ̆ng tơlơi hơdip mơyang gơñu ƀu thâo tha tơsă hĭ ôh. 15Bơ kơ khul pơjĕh lê̆ ƀơi lŏn hiam, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih hơmư̆ boh hiăp Ơi Adai laih anŭn djă̱ pioh amăng pran jua tơpă hiam. Tui anŭn, ƀing gơñu gir run pơtơbiă rai lu boh čroh yơh.”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Apui Kơđen

(Markôs 4:21-25)

16“Ƀu hơmâo ôh hlơi pô čuh apui kơđen laih anŭn go̱m hĭ hăng kơƀai ƀôdah pioh apui anŭn gah yŭ kơ sưng pĭt, samơ̆ ñu pioh apui anŭn ƀơi gơ̆ng tơkai kơđen yơh, tui anŭn ƀing hlơi pô mŭt pơ sang dưi ƀuh tơlơi bơngač yơh. 17Ăt kar kaĭ mơ̆n, ƀu hơmâo tơlơi pơdŏp hơget ôh ƀu či rơđah tơbiă hĭ tơdơi kơ anŭn, kŏn hơmâo tơlơi hơgŏm hơget lơi ƀu či thâo krăn laih anŭn rơđah hĭ amăng tơlơi bơngač.
18“Tui anŭn, răng bĕ kơ abih tơlơi ƀing gih hơmư̆, yuakơ hlơi pô hơmâo thâo hluh laih, Ơi Adai či pha brơi kơ ñu thâo hluh lu hloh dơ̆ng, samơ̆ hlơi pô ƀu hơmâo thâo hluh ôh, wơ̆t dah hơget tơlơi ñu pơmĭn ñu hơmâo thâo hluh laih, Ơi Adai ăt či mă pơđuaĭ hĭ mơ̆ng ñu mơ̆n.”

Amĭ Hăng Ƀing Adơi Yêsu Sĭt

(Mathiơ 12:46-50; Markôs 3:31-35)

19Tơdơi kơ anŭn, amĭ Yêsu hrŏm hăng ƀing adơi Ñu rai kiăng bưp Yêsu, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi nao truh pơ Yêsu ôh yuakơ hơmâo lu mơnuih đơi. 20Tui anŭn, hơmâo mơnuih rai laĭ hăng Yêsu tui anai, “Amĭ Ih hrŏm hăng ƀing adơi Ih hlak dŏ tơguan gah rơngiao kiăng kơ bưp ih.” 21Samơ̆ Yêsu laĭ glaĭ, “Amĭ Kâo laih anŭn ƀing ayŏng adơi Kâo sĭt jing ƀing hơmư̆ boh hiăp Ơi Adai hăng ngă tui yơh.”

Yêsu Khă Rơbŭ Kơthel Ƀơi Dơnao Galilê

(Mathiơ 8:23-27; Markôs 4:35-41)

22Hơmâo sa hrơi, Yêsu laĭ hăng ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Nă, ƀing ta nao bĕ pơ ha̱ng gah adih ia dơnao anai.” Tui anŭn, ƀing gơñu đĭ hrŏm amăng sa boh sŏng laih anŭn waih nao yơh. 23Tơdang ƀing gơñu hlak waih nao, Yêsu lê̆ pĭt yơh. Giŏng anŭn, tơdang Yêsu hlak dŏ pĭt, hơmâo angĭn rơbŭ kơthel truh ƀơi ia dơnao anŭn laih anŭn sŏng gơñu le̱ng kơ ia soh sel, tui anŭn ƀing gơñu huĭ hyưt biă mă yơh. 24Giŏng anŭn, ƀing gơñu nao râo mơdưh Yêsu tui anai, “Ơ Khua, Ơ Khua hơi, ƀing ta jĕ či tram yơh anai!” Tui anŭn, Yêsu tơgŭ laih anŭn khă hĭ angĭn rơbŭ wơ̆t hăng jơlah ia păh pung mơ̆n; rơbŭ kơthel rơiăt hĭ laih anŭn jơlah ia dŏ hơđơ̆ng mơtam yơh. 25Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih ƀu hơmâo tơlơi đaŏ ôh hă?” Laih anŭn ƀing gơ̆ huĭ bra̱l hli̱ng hla̱ng pơlaĭ hăng tơdruă tui anai, “Tui anŭn, hlơi Pô anai jing lĕ, tơl Ñu khă wơ̆t dah angĭn hăng jơlah ia ăt gưt tui Ñu mơ̆n?”

Yêsu Pơsuaih Sa Čô Đah Rơkơi Yang Sat Ngă

(Mathiơ 8:28-34; Markôs 5:1-20)

26Giŏng anŭn, ƀing gơñu ăt nao tŏ tui tơl truh pơ ha̱ng ia anih ƀing Gerasa gah adih kơ kwar Galilê. 27Tơdang Yêsu yak tơbiă nao pơ ha̱ng, hơmâo sa čô đah rơkơi yang sat ngă amăng plei pla anŭn rai bưp Yêsu. Sui ƀiă laih pô yang sat ngă anai ƀu čut hơô sum ao ôh kŏn dŏ hơdip amăng sang lơi, samơ̆ hơdip amăng khul pơsat yơh. 28Tơdang ñu ƀuh Yêsu, ñu ur kraih, rơbuh bon ƀơi anăp Yêsu laih anŭn pơhiăp kraih tui anai, “Ơ Yêsu, Ană Ơi Adai Glông Hloh hơi, yua hơget Ih pơtơpăk hăng kâo lĕ? Kâo kwưh rơkâo Ih anăm pơtơnap hĭ kâo ôh.” 29Pô yang ngă anai laĭ tui anŭn yuakơ Yêsu hơmâo pơđar laih yang sat tơbiă mơ̆ng ñu. Yang sat anŭn hơmâo git gai ñu lu wơ̆t laih. Ƀing arăng akă hăng čuăk, anŭh hăng tơlŏng laih anŭn gak wai ñu, samơ̆ ñu dưi kơtŭng taih pơčah hĭ, tui anŭn yang sat ba pơđuaĭ hĭ ñu nao pơ tơdron ha̱r.
30Giŏng anŭn, Yêsu tơña kơ ñu tui anai, “Hlơi anăn ŏng lĕ?” Ñu laĭ glaĭ, “Ling tơhan,” yuakơ lu yang sat biă mă hơmâo mŭt laih amăng ñu. 31Laih anŭn ƀing yang sat anŭn kwưh rơkâo Yêsu anăm brơi ƀing gơñu tơbiă nao pơ hlung dơlăm ôh, jing anih pơkơhma̱l.
32Hlak anai hơmâo sa tơpul bơbui lu hlak čuk ƀơ̆ng kơtuai bŏl čư̆ anŭn, tui anŭn ƀing yang sat anŭn kwưh rơkâo Yêsu brơi ƀing gơñu mŭt amăng tơpul bơbui anŭn. Hơnŭn yơh, Yêsu brơi ƀing gơñu tơbiă đuaĭ mơtam. 33Tui anŭn, ƀing yang sat tơbiă mơ̆ng pô yang ngă anŭn hăng mŭt amăng tơpul bơbui, laih anŭn tơpul bơbui anŭn đuaĭ nao kơdâo mơ̆ng hơ̆ng dơ̆ng kơdư trŭn pơ dơnao ia hăng djai tram hĭ abih.
34Tơdang ƀing wai bơbui anŭn ƀuh tơpul bơbui anŭn djai tram amăng dơnao ia, ƀing gơñu đuaĭ kơdŏp laih anŭn ră ruai tơlơi truh anŭn amăng rĭm plei pla jum dar. 35Giŏng anŭn, ƀing ană plei mơ̆ng plei pla anŭn tơbiă rai lăng tơlơi hơmâo truh laih. Ƀing gơñu nao pơ Yêsu hăng ƀuh pô yang sat ngă, jing pô yang sat hơmâo tơbiă đuaĭ laih, hlak dŏ be̱r jĕ ƀơi tơkai Yêsu, čut hơô sum ao laih anŭn tơlơi pơmĭn gơ̆ tơngăl laih. Tui anŭn, ƀing gơñu huĭ hyưt biă mă. 36Laih anŭn ƀing mơnuih, jing ƀing hơmâo ƀuh laih tơlơi truh anŭn, ră ruai glaĭ kơ ƀing ană plei anŭn hiư̆m pô yang sat ngă anŭn hơmâo suaih hĭ laih. 37Giŏng anŭn, abih bang ƀing ană plei mơ̆ng jum dar anih Gerasa anŭn rơkâo Yêsu tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing gơñu, yuakơ ƀing gơñu huĭ bra̱l biă mă. Tui anŭn, Yêsu hăng ƀing ding kơna Ñu wơ̆t glaĭ pơ sŏng kiăng kơ đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn. 38Pô yang ngă anŭn, jing pô suaih laih, rơkâo kiăng kơ đuaĭ tui Yêsu, samơ̆ Yêsu pơkiaŏ gơ̆ nao hăng laĭ tui anai, 39“Wơ̆t glaĭ bĕ pơ sang ih laih anŭn pơhaih bĕ abih tơlơi yom Ơi Adai hơmâo ngă laih kơ ih.” Giŏng anŭn, gơ̆ glaĭ ră ruai djŏp djang anih amăng plei kơ tơlơi mơyang yom pơphan Yêsu hơmâo ngă laih kơ gơ̆.

Yêsu Pơsuaih Laih Anŭn Pơhơdip

(Mathiơ 9:18-26; Markôs 5:21-43)

40Tơdang Yêsu wơ̆t glaĭ pơ ha̱ng gah adih dơnao ia Galilê, ƀing mơnuih lu nao čơkă Yêsu yuakơ ƀing gơñu le̱ng kơ dŏ tơguan Yêsu soh sel. 41Hlak anŭn, hơmâo sa čô khua sang pơjơnum anăn ñu Yairus, rai bon ƀơi tơkai Yêsu kwưh rơkâo kơ Yêsu nao pơ sang ñu, 42yuakơ kơnơ̆ng hơjăn ană dra ñu pluh-dua thŭn anai yơh gơ̆ hơmâo, hlak ruă jĕ či djai laih.
 Tơdang Yêsu hlak nao, ƀing mơnuih lu anŭn pơkơhñet kiăng nao jĕ Yêsu.
43Hơmâo sa čô đah kơmơi hơmâo tơlơi ruă tuh drah amăng pluh-dua thŭn laih, samơ̆ ƀu hơmâo nai pơjrao pă ôh dưi pơsuaih brơi gơ̆. 44Ñu rai ƀơi gah rŏng Yêsu laih anŭn ruaih ƀơi jăh ao Yêsu. Mông anŭn, tơlơi ruă tuh drah ñu khơ̆t hĭ mơtam yơh, 45laih anŭn Yêsu tơña tui anai, “Hlơi pô ruaih djơ̆ Kâo lĕ?” Tơdang anŭn abih bang mơnuih jĕ pơ anŭn le̱ng kơ hơngah hĭ, samơ̆ Pêtrôs laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Khua ăh, ƀing mơnuih lu jum dar Ih anai pơkơhñet laih anŭn pơtơlư̆ djơ̆ Ih.”
46Samơ̆ Yêsu laĭ tui anai, “Hơmâo mơnuih ruaih djơ̆ laih Kâo hăng tơlơi kơñăm, laih anŭn dơ̆ng, Kâo thâo pơmưn tơlơi dưi mơyang hơmâo tơbiă hĭ laih mơ̆ng kâo.” 47Tơdang pô đah kơmơi anŭn thâo ñu ƀu dưi pơdŏp hĭ dơ̆ng tah, ñu huĭ tơtư̆ rai bon ƀơi anăp Yêsu. Giŏng anŭn, ñu pơhaih ƀơi anăp abih bang ƀing mơnuih lu anŭn yua hơget ñu hơmâo ruaih djơ̆ laih Yêsu, wơ̆t hăng tơlơi ñu dưi suaih hĭ tañ mơtam. 48Tui anŭn, Yêsu laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Ơ neh ăh, Ơi Adai hơmâo pơsuaih laih ih yuakơ ih đaŏ kơ Kâo. Nao rơnŭk rơnua bĕ!”
49Tơdang Yêsu hlak dŏ pơhiăp, hơmâo sa čô mơnuih mơ̆ng sang khua sang pơjơnum anŭn rai laĭ hăng khua anŭn tui anai, “Ană dra ih djai laih; anăm pơgleh Nai dơ̆ng tah.” 50Samơ̆ tơdang Yêsu hơmư̆ tơlơi anŭn, Ñu laĭ glaĭ kơ khua anŭn tui anai, “Anăm huĭ ôh, kơnơ̆ng đaŏ kơnang đôč laih anŭn ană dra ih či hơdip glaĭ yơh.”
51Laih anŭn tơdang Yêsu truh pơ sang khua anŭn, Ñu ƀu brơi hlơi pô ôh dưi mŭt hrŏm hăng Ñu, samơ̆ Ñu kơnơ̆ng brơi Pêtrôs, Yôhan laih anŭn Yakơ wơ̆t hăng amĭ ama dra anŭn đôč mŭt pơ anih ană dra anŭn dŏ. 52Tơdang anŭn, abih bang mơnuih le̱ng kơ čŏk hia rơngot hơning kơ ană dra anŭn, samơ̆ Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu, “Anăm hia ôh, ñu ƀu djai ôh, samơ̆ ñu kơnơ̆ng pĭt đôč.” 53Tui anŭn, ƀing gơñu klao djik djak kơ Yêsu yuakơ ƀing gơñu thâo sĭt ană dra anŭn djai laih.
54Tơdang Yêsu mŭt pơ anih ană dra anŭn dŏ, Ñu mă ƀơi tơngan gơ̆ hăng pơđar tui anai, “Ơ mô̆, tơgŭ bĕ!” 55Giŏng anŭn, bơngăt ană dra anŭn wơ̆t glaĭ pơ gơ̆ laih anŭn gơ̆ tơgŭ mơtam; tui anŭn Yêsu pơđar kơ arăng brơi gơnam ƀơ̆ng huă kơ gơ̆. 56Amĭ ama gơ̆ dŏ kơtuă hli̱ng hla̱ng biă mă, samơ̆ Yêsu khă kơ ƀing gơ̆ ƀu dưi ră ruai tơlơi truh anai kơ arăng ôh.