14

Sự đau đớn, chết và sống lại của Đức Chúa Jêsus

(Từ đoạn 14 đến đoạn 16)

Sự lập mưu của các thầy tế lễ

(Mat 26:1-5; Lu 22:1,2; Gi 11:45-53)

1 Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ ăn bánh không men, các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo tìm mưu đặng bắt Đức Chúa Jêsus và giết đi. 2 Vì họ nói rằng: Chẳng nên làm việc nầy trong ngày lễ, sợ sanh sự xôn xao trong dân chúng.

Chúa chịu xức dầu tại Bê-tha-ni

(Mat 26:6-13; Gi 12:1-8)

3 Đức Chúa Jêsus ở tại làng Bê-tha-ni, trong nhà Si-môn là kẻ phung. Ngài đương ngồi bàn ăn, có một người đàn bà vào, đem một cái bình bằng ngọc, đựng đầy dầu cam tòng thật rất quí giá, đập bể ra mà đổ dầu thơm trên đầu Đức Chúa Jêsus. 4 Có vài người nổi giận nói cùng nhau rằng: Sao xài phí dầu thơm ấy như vậy? 5 Vì có thể bán dầu đó được hơn ba trăm đơ-ni-ê, mà bố thí cho kẻ khó khăn. Vậy, họ oán trách người. 6 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để mặc người; sao các ngươi làm rầy người mà chi? Người đã làm một việc tốt cho ta. 7 Vì các ngươi hằng có kẻ khó khăn ở cùng mình, khi nào muốn làm phước cho họ cũng được; nhưng các ngươi chẳng có ta ở luôn với đâu. 8 Người đã làm điều mình có thể làm được, đã xức xác ta trước để chôn. 9 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin lành nầy được giảng ra, việc người đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người.

Đứa phản Chúa

(Mat 26:14-16; Lu 22:3-6)

10 Bấy giờ, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một trong mười hai sứ đồ, đến nơi các thầy tế lễ cả, để nộp Đức Chúa Jêsus cho. 11 Họ vui lòng mà nghe, và hứa cho nó tiền bạc; rồi Giu-đa tìm dịp tiện để nộp Ngài.

Sự lập lễ Tiệc thánh

(Mat 26:17-30; Lu 22:7-20; Gi 13:21-30)

12 Ngày thứ nhứt về lễ ăn bánh không men, là ngày giết chiên con làm lễ Vượt qua, các môn đồ thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Thầy muốn chúng tôi đi dọn cho thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu? 13 Ngài sai hai môn đồ đi, và dặn rằng: Hãy vào thành, sẽ gặp một người xách vò nước; cứ theo sau, 14 hễ người vào nhà nào, các ngươi sẽ nói cùng chủ nhà ấy rằng: Thầy phán: Cái phòng ta sẽ dùng ăn lễ Vượt qua với môn đồ ta ở đâu? 15 Chính kẻ đó sẽ chỉ cho các ngươi một cái phòng lớn trên lầu có đồ đạc sẵn sàng, hãy dọn tại đó cho chúng ta. 16 Vậy, hai môn đồ đi ra mà vào thành, gặp mọi điều như lời Ngài đã phán, rồi dọn lễ Vượt qua.
17 Buổi chiều, Ngài đến với mười hai sứ đồ. 18 Đang ngồi ăn, Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong vòng các ngươi có một kẻ ngồi ăn cùng ta, sẽ phản ta. 19 Các môn đồ bèn buồn rầu lắm, cứ lần lượt mà thưa cùng Ngài rằng: Có phải tôi chăng? 20 Ngài đáp rằng: ấy là một trong mười hai người, là người thò tay vào mâm cùng ta. 21 Vì Con người đi, y như lời đã chép về Ngài; song khốn cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn.
22 Khi đang ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn, đoạn bẻ ra trao cho các môn đồ, mà phán rằng: Hãy lấy, nầy là thân thể ta. 23 Ngài lại cầm chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đồ, và ai nấy đều uống. 24 Ngài phán rằng: Nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều người. 25 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày ta sẽ uống trái nho mới trong nước Đức Chúa Trời.

Chúa bảo trước cho Phi-e-rơ

(Mat 26:31-35; Lu 22:31-34; Gi 13:36-38)

26 Khi đã hát thơ thánh rồi, Chúa và môn đồ đi ra đặng lên núi Ô-li-ve. 27 Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp phạm; vì có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc. 28 Nhưng khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi. 29 Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, nhưng tôi chẳng hề làm vậy. 30 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay, cũng trong đêm nay, trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần. 31 Nhưng Phi-e-rơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu. Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy.

Vườn Ghết-sê-ma-nê. – Chúa bị bắt

(Mat 26:36-56; Lu 22:39-43.– Gi 18:3-12)

32 Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện. 33 Ngài bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não. 34 Ngài phán cùng ba người rằng: Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức. 35 Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng nếu có thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình. 36 Ngài rằng: A-ba, lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn. 37 Rồi Ngài trở lại, thấy ba người ngủ; bèn phán cùng Phi-e-rơ rằng: Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao? 38 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối. 39 Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện y như lời trước. 40 Ngài trở lại, thấy môn đồ còn ngủ, vì con mắt đã đừ quá; và không biết trả lời cùng Ngài thể nào. 41 Ngài trở lại lần thứ ba, phán cùng môn đồ rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! Thôi, giờ đã tới rồi; nầy, Con người hầu bị nộp trong tay kẻ có tội. 42 Hãy chờ dậy, đi hè; kìa, đứa phản ta đã đến gần. 43 Ngài đương còn phán, tức thì Giu-đa, là một trong mười hai sứ đồ thoạt đến với một toán đông cầm gươm và gậy, bởi các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão phái đến. 44 Vả, đứa phản Ngài đã cho chúng dấu hiệu nầy: Hễ tôi hôn ai, ấy là người đó; hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận. 45 Vậy, khi Giu-đa đến rồi, liền lại gần Ngài mà nói rằng: Lạy thầy! Rồi nó hôn Ngài. 46 Chúng bèn tra tay bắt Đức Chúa Jêsus. 47 Có một người trong những kẻ ở đó rút gươm ra, đánh một đứa đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém đứt tai đi. 48 Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến bắt ta như ta là kẻ trộm cướp. 49 Ta hằng ngày ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ, mà các ngươi không bắt ta; nhưng điều ấy xảy đến, để lời Kinh thánh được ứng nghiệm. 50 Bấy giờ, mọi người đều bỏ Ngài và trốn đi cả.
51 Có một người trẻ tuổi kia theo Ngài, chỉ có cái khăn bằng gai trùm mình; chúng bắt người. 52 Nhưng người bỏ khăn lại, ở truồng chạy trốn khỏi tay chúng.

Đức Chúa Jêsus trước mặt Cai-phe. – Phi-e-rơ chối Chúa

(Mat 26:57-75; Lu 22:54-71; Gi 18:13-27)

53 Chúng điệu Đức Chúa Jêsus đến nơi thầy cả thượng phẩm, có hết thảy thầy tế lễ cả, trưởng lão, và thầy thông giáo nhóm họp tại đó. 54 Phi-e-rơ theo sau Ngài xa xa, cho đến nơi sân trong của thầy cả thượng phẩm; rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi. 55 Vả, các thầy tế lễ cả, cùng cả tòa công luận đều tìm chứng gì để nghịch cùng Đức Chúa Jêsus đặng giết Ngài, song không kiếm được chi hết. 56 Vì có nhiều kẻ làm chứng dối nghịch cùng Ngài; nhưng lời họ khai chẳng hiệp nhau. 57 Bấy giờ có mấy người đứng lên làm chứng dối nghịch cùng Ngài rằng: 58 chúng tôi có nghe người nói: Ta sẽ phá đền thờ nầy bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày ta sẽ cất một đền thờ khác không phải bởi tay người ta cất. 59 Song về điều nầy, lời chứng của họ cũng chẳng hiệp nhau nữa.
60 Khi ấy, thầy cả thượng phẩm đứng dậy giữa hội đồng, tra hỏi Đức Chúa Jêsus mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết về những điều các kẻ nầy cáo ngươi sao? 61 Nhưng Đức Chúa Jêsus làm thinh, không trả lời chi hết. Thầy cả thượng phẩm lại hỏi: Ấy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không? 62 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta chính phải đó; các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến. 63 Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà rằng: Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi? 64 Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng? Các ngươi nghĩ thế nào: Ai nấy đều đoán Ngài đáng chết.
65 Có kẻ nhổ trên Ngài, đậy mặt Ngài lại, đấm Ngài, và nói với Ngài rằng: Hãy nói tiên tri đi! Các lính canh lấy gậy đánh Ngài.
66 Phi-e-rơ đương ở dưới nơi sân, có một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm đến, 67 thấy Phi-e-rơ đương sưởi, ngó người mà rằng: Ngươi trước cũng ở với Jêsus Na-xa-rét! 68 Nhưng người chối rằng: Ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi. Đoạn, người bước ra tiền đàng, thì gà gáy. 69 Đầy tớ gái đó thấy người, lại nói cùng những người ở đó rằng: Người nầy cũng là bọn đó. 70 Nhưng người lại chối một lần nữa. Khỏi một chặp, những kẻ đứng đó nói cùng Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng là bọn đó, vì ngươi là người Ga-li-lê. 71 Người bèn rủa mà thề rằng: Ta chẳng hề quen biết với người mà các ngươi nói đó! 72 Tức thì gà gáy lần thứ hai; Phi-e-rơ bèn nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán rằng: Trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần. Người tưởng đến thì khóc.

14

Tơlơi Hơduah Mơneč Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Yêsu

(Mathiơ 26:1-5; Luk 22:1, 2; Yôhan 11:45-53)

1Hlak anŭn, dŏ dua hrơi dơ̆ng truh kơ hrơi phet Tơlơi Găn hăng hrơi Phet Ƀañ Tơpŭng Ƀu Hơmâo Tơpơi, laih anŭn ƀing khua ngă yang prŏng hăng ƀing nai pơtô tơlơi juăt hơduah mơneč hơgŏm kiăng kơ mă Yêsu hăng pơdjai hĭ Ñu. 2Ƀing gơñu laĭ tui anai, “Ƀing ta anăm ngă tơlơi anŭn amăng hrơi phet ôh, huĭ kơ ƀing ană plei či pơrŭng pơrăng.”

Sa Čô Đah Kơmơi Trôč Ia Ƀâo Hiam Kơ Yêsu

(Mathiơ 26:6-13; Yôhan 12:1-8)

3Tơdang Yêsu dŏ amăng plei Bêthania, hlak dŏ be̱r ƀơi kơƀa̱ng amăng sang sa čô mơnuih anăn Simôn, jing pô djơ̆ phŭng hlâo adih, hơmâo sa čô đah kơmơi djă̱ sa ge̱t pơtâo kô̱̆, amăng ge̱t anŭn hơmâo ia ƀâo hiam yom biă mă, arăng pơkra ia ƀâo anŭn hăng phŭn nar. Ñu taih pơčah hĭ ge̱t anŭn laih anŭn trôč ia ƀâo hiam anŭn ƀơi akŏ Yêsu.
4Hơmâo đơđa mơnuih hlak dŏ pơ anŭn pơhiăp hăng tơlơi hil kơ tơdruă gơñu tui anai, “Yua hơget pơhoăč hĭ ia ƀâo hiam anŭn lĕ? 5Tơdah ƀing ta sĭ ia ƀâo hiam anŭn, ƀing ta dưi sĭ hloh kơ nua apăh mă bruă amăng sa thŭn yơh laih anŭn yua prăk anŭn brơi da̱n kơ ƀing ƀun rin.” Tui anŭn, ƀing gơñu ƀuăh kơ pô đah kơmơi anŭn kơtang biă mă yơh.
6Yêsu laĭ tui anai, “Lui mak ai ñu bĕ. Yua hơget ƀing gih pơhiăp ƀuăh kơ ñu lĕ? Ñu hơmâo ngă laih sa bruă hiam kơ Kâo. 7Ƀing gih či hơmâo ƀing ƀun rin nanao laih anŭn ƀing gih dưi djru kơ ƀing gơñu ƀơi mông pă ƀing gih kiăng yơh, samơ̆ ƀing gih ƀu hơmâo Kâo dŏ hăng ƀing gih nanao ôh. 8Ñu ngă hơget tơlơi ñu dưi ngă yơh. Ñu trôč ia ƀâo hiam anai ƀơi črăn drơi jan Kâo, ñu ngă tơlơi anŭn kiăng prap pre kơ tơlơi arăng či dơ̱r atâo Kâo yơh. 9Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, pơpă anih mơnuih mơnam nao pơtô pơblang kơ Tơlơi Pơthâo Hiam anai kơ Dêh Čar Ơi Adai, sĭt ƀing gơñu ăt či ră ruai glaĭ kơ tơlơi pô đah kơmơi anai ngă laih yơh kiăng kơ lu mơnuih djă̱ hơdơr kơ gơ̆.”

Yudas Tŭ Ư Pơblư̆ Hĭ Yêsu

(Mathiơ 26:14-16; Luk 22:3-6)

10Giŏng anŭn, Yudas Iskariôt, jing sa čô amăng pluh-dua čô ƀing ding kơna pơjao, nao pơ ƀing khua ngă yang prŏng kiăng kơ jao pơblư̆ hĭ Yêsu kơ ƀing gơñu. 11Tơdang ƀing gơñu hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, ƀing gơñu mơak yơh laih anŭn ƀuăn pha brơi prăk kơ Yudas. Tui anŭn, Yudas hơduah mông găl kiăng kơ jao lui hĭ Yêsu kơ ƀing gơñu.

Yêsu Pơjing Tơlơi Ƀơ̆ng Mơñum Pơgop Hiam Klă

(Mathiơ 26:17-25; Luk 22:7-14, 21-23; Yôhan 13:21-30)

12Amăng hrơi tal sa kơ hrơi phet Ƀañ Tơpŭng Ƀu Hơmâo Tơpơi, tơdang anŭn jing tơlơi phiăn kiăng kơ pơyơr ngă yang ană triu Tơlơi Găn, ƀing ding kơna Yêsu tơña kơ Ñu tui anai, “Pơpă Ih kiăng kơ ƀing gơmơi nao hăng prap pre gơnam ƀơ̆ng huă kơ hrơi Phet Tơlơi Găn brơi kơ Ih lĕ?”
13Tui anŭn, Yêsu pơkiaŏ nao dua čô ƀing ding kơna Ñu hăng pơtă kơ ƀing gơñu tui anai, “Mŭt nao bĕ amăng plei Yerusalaim, laih anŭn hơmâo sa čô đah rơkơi đua čeh ia či bưp ƀing gih. Đuaĭ tui ñu bĕ. 14Sang pă ñu mŭt nao, ƀing gih či laĭ kơ pô sang anŭn tui anai, ‘Nai ta tơña tui anai: Pơpă anih tuai jing anih Kâo či ƀơ̆ng huă hrơi phet Tơlơi Găn hrŏm hăng ƀing ding kơna Kâo lĕ?’ 15Pô sang anŭn či kơčrâo brơi kơ ƀing gih sa anih rơhaih gah glông hơmâo prap rơmet lui laih. Pơkra bĕ gơnam ƀơ̆ng huă kơ ƀing ta pơ anih anŭn.”
16Ƀing ding kơna anŭn đuaĭ nao, mŭt amăng plei anŭn laih anŭn bưp abih bang tơlơi kar hăng Yêsu hơmâo pơtă laih kơ ƀing gơñu. Tui anŭn, ƀing gơñu prap pre gơnam kơ hrơi phet Tơlơi Găn yơh.
17Tơdang hrơi klăm truh laih, Yêsu nao truh pơ anih anŭn hrŏm hăng pluh-dua čô ƀing ding kơna. 18Tơdang ƀing gơñu hlak dŏ ƀơi kơƀa̱ng ƀơ̆ng huă, Yêsu laĭ tui anai, “Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, sa čô amăng ƀing gih či pơblư̆ lui hĭ Kâo, jing pô hlak dŏ ƀơ̆ng huă hrŏm hăng Kâo yơh.”
19Ƀing gơñu rơngot biă mă laih anŭn rĭm čô amăng ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Ƀu djơ̆ kâo ôh, djơ̆ mơ̆?”
20Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Anŭn jing sa čô amăng pluh-dua čô ƀing ding kơna yơh. Jing pô añŭ ƀañ tơpŭng amăng mŏng anai hrŏm hăng Kâo. 21Kâo, jing Ană Mơnuih, či djai hĭ yơh tui hăng arăng hơmâo čih lui hlâo laih kơ Kâo amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam. Samơ̆ răm ƀăm yơh kơ pô pơblư̆ hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih anai! Hiam hloh yơh tơdah amĭ ñu ƀu tơkeng rai ôh kơ ñu hlâo adih!”

Tơlơi Ƀơ̆ng Pơgop Khua Yang

(Mathiơ 26:26-30; Luk 22:14-20; 1 Korinthos 11:23-25)

22Tơdang ƀing gơñu hlak dŏ ƀơ̆ng huă, Yêsu mă sa pŏk ƀañ tơpŭng, bơni hơơč, pĕ ƀañ anŭn hăng pơpha brơi kơ ƀing ding kơna Ñu laih anŭn laĭ tui anai, “Mă ƀơ̆ng bĕ; anai jing drơi jan Kâo yơh.”
23Giŏng anŭn, Ñu mă kơčŏk ia boh kơƀâo, bơni hơơč kơ Ơi Adai, brơi kơ ƀing ding kơna Ñu laih anŭn abih bang ƀing gơñu mơñum mơ̆ng kơčŏk anŭn yơh.
24Yêsu laĭ hăng ƀing gơñu tui anai, “Ia anai jing drah Kâo, jing drah kơđŏm kơ tơlơi pơgop phrâo, či tuh brơi kơ lu mơnuih. 25Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, Kâo ƀu či mơñum ia boh kơƀâo dơ̆ng tah tơl truh hrơi Kâo či mơñum glaĭ ia boh kơƀâo dơ̆ng amăng dêh čar Ơi Adai.”
26Giŏng anŭn, ƀing gơñu adoh đơđa Tơlơi Adoh Bơni Hơơč giŏng laih, Yêsu hăng ƀing ding kơna Ñu tơbiă đĭ nao pơ bŏl čư̆ Ôliwơ yơh.

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Pêtrôs Či Hơngah Hĭ Ñu

(Mathiơ 26:31-35; Luk 22:31-34; Yôhan 13:36-38)

27Yêsu laĭ kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Abih bang ƀing gih či čơlah đuaĭ lui raih hĭ Kâo, yuakơ arăng hơmâo čih tui anai,
  “ ‘Kâo či pơdjai hĭ pô wai triu,
   tui anŭn khul triu či čơlah đuaĭ hĭ bru bra yơh.’
28“Samơ̆ tơdơi kơ Ơi Adai pơhơdip glaĭ laih Kâo, Kâo či nao pơ kwar Galilê hlâo kơ ƀing gih yơh.”
29Pêtrôs laĭ glaĭ tui anai, “Kâo ƀu či čơlah đuaĭ lui raih hĭ Ih ôh, wơ̆t tơdah abih bang le̱ng kơ čơlah đuaĭ lui raih hĭ Ih.”
30Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Kâo laĭ hăng ih sĭt biă mă, hrơi anai, Ơ, amăng mlam kơñ, hlâo kơ mơnŭ tơdjô̆ dua wơ̆t, klâo wơ̆t mơtam yơh ih pô či hơngah hĭ ƀu thâo krăn ôh Kâo.”
31Samơ̆ Pêtrôs pơhiăp kơđŏm tui anai, “Wơ̆t tơdah kâo khŏm či djai hrŏm hăng Ih tŭ mơ̆n, kâo ƀu či hơngah hĭ Ih ôh.” Laih anŭn abih bang ding kơna pơkŏn ăt pơhiăp hrup hăng anŭn mơ̆n.

Yêsu Iâu Laĭ Ƀơi Đang Getsêmani, Jing Đang Kơyâo Ôliwơ

(Mathiơ 26:36-46; Luk 22:39-46)

32Giŏng anŭn, ƀing gơñu nao pơ sa boh anih anăn Getsêmani laih anŭn Yêsu pơtă kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Dŏ be̱r tơguan bĕ pơ anai tơdang Kâo nao iâu laĭ.”
33Ñu ăt jak ba Pêtrôs, Yakơ laih anŭn Yôhan nao hrŏm hăng Ñu. Ñu čơdơ̆ng bơngơ̆t bơngañ hăng rơngot hơning kơtang biă mă. 34Ñu laĭ hăng ƀing gơñu tui anai, “Jua bơngăt Kâo bơngơ̆t bơngañ kar hăng jĕ či djai yơh. Ƀing gih dŏ krŏng pơ anai hŏ!”
35Ñu rơbat nao pơanăp ƀiă, Ñu bon akŭp ƀơi lŏn hăng iâu laĭ kơ tơlơi tơdah dưi rơkâo kơ mông anŭn pơrơgao hĭ mơ̆ng Ñu. 36Ñu iâu laĭ tui anai, “Abba, Ơ Ama ăh, tơdah dưi, rơkâo kơ Ih mă pơđuaĭ hĭ bĕ kơčŏk ruă nuă anai mơ̆ng Kâo. Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀu djơ̆ tui hăng tơlơi Kâo kiăng ôh, samơ̆ tui hăng tơlơi Ih kiăng yơh.”
37Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Yêsu wơ̆t glaĭ pơ ƀing ding kơna Ñu, ƀuh ƀing gơñu hlak dŏ pĭt. Ñu laĭ kơ Pêtrôs tui anai, “Ơ Simôn, ih dŏ pĭt hă? Hiư̆m pă ih ƀu dưi dŏ krŏng hrŏm hăng Kâo wơ̆t tơdah kơnơ̆ng amăng sa mông ôh hă? 38Dŏ krŏng hrŏm hăng Kâo laih anŭn iâu laĭ bĕ, kiăng kơ ƀing gih ƀu lê̆ ôh amăng tơlơi plư. Jua bơngăt gih kiăng dŏ krŏng biă mă yơh samơ̆ drơi jan gih jing tơdu.”
39Sa wơ̆t dơ̆ng Ñu nao hăng iâu laĭ ăt hrup hăng hlâo mơ̆n. 40Tơdơi ƀiă Yêsu wơ̆t glaĭ, sa wơ̆t dơ̆ng Ñu ƀuh ƀing ding kơna hlak dŏ pĭt yuakơ mơta gơñu añip laih. Laih anŭn ƀing gơñu ƀu thâo hơget ôh kiăng kơ laĭ glaĭ kơ Yêsu.
41Tơdang Yêsu wơ̆t glaĭ tal klâo, Ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ră anai ƀing gih ăt dŏ pĭt laih anŭn dŏ pơdơi pơdă hă? Djŏp laih! Mông hơmâo truh laih. Anai nê, arăng či mă jao lui hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih, amăng tơlơi dưi ƀing mơnuih soh yơh. 42Tơgŭ bĕ, brơi ƀing ta nao bĕ. Lăng adih, pô pơblư̆ lui hĭ Kâo truh laih yơh.”

Sa Tơpul Mơnuih Lu Rai Mă Yêsu

(Mathiơ 26:47-56; Luk 22:47-53; Yôhan 18:3-12)

43Tơdang Yêsu ăt hlak dŏ pơhiăp, blĭp blăp Yudas, jing sa čô amăng pluh-dua čô ƀing ding kơna, rai laih anŭn hrŏm hăng ñu hơmâo sa tơpul mơnuih lu djă̱ ba đao hăng gai tơlŏ. Ƀing khua ngă yang prŏng, ƀing nai pơtô tơlơi juăt laih anŭn ƀing kŏng tha yơh pơkiaŏ rai tơpul mơnuih lu anŭn.
44Hlâo kơ anŭn, pô pơblư̆ jao lui hĭ Yêsu hơmâo pơthâo laih hăng tơpul mơnuih anŭn gru kơnăl anai, “Hlơi pô kâo čum kơkuh, Ñu anŭn yơh Yêsu, mă pơđuaĭ hĭ Ñu hăng gak wai Ñu bĕ!” 45Yudas rai jĕ pơ Yêsu mơtam hăng laĭ tui anai, “Ơ Rabbi ăh!” Laih anŭn, ñu čum kơkuh Yêsu. 46Tơpul mơnuih lu anŭn mă Yêsu yơh. 47Giŏng anŭn, hơmâo sa čô amăng ƀing dŏ dơ̆ng jĕ pơ anŭn suă đao ñu hăng kŏh hĭ pô hlŭn khua ngă yang prŏng hloh, laih anŭn kŏh tơĭ hĭ sa gah tơngia gơ̆.
48Yêsu laĭ tui anai, “Ƀing gih djă̱ đao hăng gai tơlŏ rai mă Kâo kar hăng rai mă mơnuih klĕ sua hă? 49Rĭm wơ̆t Kâo dŏ pơ anih wăl tơdron Sang Yang kiăng kơ pơtô laĭ pơ anŭn, samơ̆ ƀing gih ƀu mă Kâo ôh. Hơnŭn yơh, tơlơi anai truh kiăng kơ pơkrĕp truh hĭ tui hăng Hră Ơi Adai Pơhiăp yơh.” 50Giŏng anŭn, abih bang ƀing ding kơna lui hĭ Yêsu hăng đuaĭ kơdŏp hĭ yơh.
51Hơmâo sa čô tơdăm, kơnơ̆ng sŏm sa blah khăn blâo ƀlĭ ƀơi drơi jan ñu, jing pô đuaĭ tui Yêsu. Tơdang tơpul mơnuih lu anŭn păn mă ñu, 52ñu đuaĭ kơdŏp dŏ mơhlŭn, tŏh lui hĭ khăn ñu anŭn pơ anŭn yơh.

Grup Ƀing Phat Kơđi Klă Kơđi Djai Kơ Yêsu

(Mathiơ 26:57-68; Luk 22:54, 55, 63-71; Yôhan 18:13, 14, 19-24)

53Ƀing gơñu ba Yêsu nao pơ sang khua ngă yang prŏng hloh, laih anŭn abih bang ƀing khua ngă yang prŏng, ƀing kŏng tha laih anŭn ƀing nai pơtô tơlơi juăt rai pơƀut hrŏm hơbĭt. 54Pêtrôs đuaĭ tui Yêsu kơnơ̆ng mơ̆ng ataih hlŏng truh pơ wăl tơdron gah rơngiao kơ sang pô khua ngă yang prŏng hloh. Ñu dŏ be̱r hrŏm hơbĭt hăng ƀing tơhan gak kiăng pơdang ñu pô jĕ ƀơi apui pơ anih anŭn.
55Hlak anŭn, ƀing khua ngă yang prŏng wơ̆t hăng abih bang ƀing pơkŏn amăng grup ƀing khua phat kơđi gir hơduah mơnuih ngă gơ̆ng jơlan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yêsu kiăng kơ hơmâo tơhơnal tơlơi arăng pơdjai hĭ Ñu, samơ̆ ƀing gơñu hơduah ƀu ƀuh ôh. 56Hơmâo lu mơnuih ngă gơ̆ng jơlan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ñu, samơ̆ hơdôm tơlơi pơhiăp gơñu ƀu pơdjơ̆ hăng tơdruă ôh.
57Giŏng anŭn, đơđa mơnuih tơgŭ pơhaih tơlơi gơ̆ng jơlan ƀlŏr anai kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yêsu tui anai, 58“Ƀing gơmơi hơmư̆ laih Ñu laĭ tui anai, ‘Kâo či pơrai hĭ Sang Yang mơnuih ngă hăng tơngan anai laih anŭn amăng klâo hrơi Kâo či pơdơ̆ng glaĭ sa boh Sang Yang pơkŏn, ƀu djơ̆ yua mơ̆ng tơngan mơnuih ngă ôh.’ ” 59Samơ̆ wơ̆t tơdah tơlơi gơ̆ng jơlan gơñu anŭn ăt ƀu pơdjơ̆ hăng tơdruă ôh.
60Giŏng anŭn, khua ngă yang prŏng hloh tơgŭ ƀơi anăp ƀing gơñu laih anŭn tơña kơ Yêsu tui anai, “Ih ƀu či laĭ glaĭ ôh hă kơ tơlơi gơ̆ng jơlan ƀing gơñu anŭn pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih anŭn?” 61Samơ̆ Yêsu kơnơ̆ng dŏ rơiăt đôč.
 Giŏng anŭn, khua ngă yang prŏng hloh tơña kơ Ñu dơ̆ng tui anai, “Ih jing Pô Messiah, jing Ană Ơi Adai hă?”
62Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Kâo yơh. Ƀing gih či ƀuh Ană Mơnuih dŏ be̱r ƀơi gah hơnuă kơ Ơi Adai Dưi Kơtang laih anŭn či trŭn rai ƀơi kơthul hiăng adai adih yơh.”
63Tui anŭn, khua ngă yang prŏng hloh hek hĭ ao ñu pô kiăng kơ pơrơđah tơlơi hil hăng hơƀak drak. Ñu pơhiăp tui anai, “Ƀing ta ƀu kiăng kơ ƀing ngă gơ̆ng jơlan pơkŏn dơ̆ng tah! 64Ƀing gih hơmâo hơmư̆ laih kơ tơlơi pơhiăp ƀrưh mơhiăh anŭn. Hơget tơlơi ƀing gih pơmĭn či ngă lĕ?”
 Abih bang ƀing gơñu klă̱ kơđi kơ Yêsu lăp kơ tŭ tơlơi djai yơh.
65Giŏng anŭn, hơmâo đơđa mơnuih čơdơ̆ng kơčŭh ia bah ƀơi Yêsu. Ƀing gơñu go̱m hĭ mơta Gơ̆, čo̱k ƀơi ƀô̆ Gơ̆ hăng pơđar tui anai, “Laĭ lui hlâo bĕ!” Laih anŭn ƀing tơhan gak mă taih Gơ̆ yơh.

Pêtrôs Hơngah Hĭ Yêsu Klâo Wơ̆t

(Mathiơ 26:69-75; Luk 22:56-62; Yôhan 18:15-18, 25-27)

66Hlak anŭn, Pêtrôs ăt dŏ pơ gah rơngiao amăng wăl tơdron sang. Hơmâo sa čô amăng ƀing ding kơna đah kơmơi amăng sang anŭn găn rai. 67Tơdang ñu ƀuh Pêtrôs dŏ pơdang ñu pô, ñu lăng jĕ ƀơi Pêtrôs yơh.
 Ñu laĭ tui anai, “Ih ăt jing pô dŏ hrŏm hăng Pô Nazaret anŭn, jing Yêsu anŭn mơ̆n.”
68Samơ̆ Pêtrôs hơngah hĭ. Ñu laĭ tui anai, “Kâo ƀu thâo krăn, kŏn thâo hluh lơi tơlơi ih kiăng laĭ anŭn.” Giŏng anŭn, ñu tơbiă nao gah rơngiao pơ bah amăng wăl tơdron sang laih anŭn mơnŭ tơdjô̆ yơh.
69Tơdang pô ding kơna đah kơmơi anŭn ƀuh ñu pơ anŭn dơ̆ng, ñu laĭ dơ̆ng hăng ƀing dŏ jum dar anŭn tui anai, “Pô anai ăt jing sa čô amăng ƀing gơñu mơ̆n.” 70Ñu hơngah hĭ dơ̆ng.
 Sui ƀiă kơ anŭn, ƀing mơnuih dŏ dơ̆ng jĕ pơ anŭn laĭ kơ Pêtrôs tui anai, “Sĭt yơh, ih ăt jing sa čô amăng grup gơñu mơ̆n, yuakơ ih jing mơnuih kwar Galilê.”
71Pêtrôs hơtŏm păh kơ ñu pô laih anŭn ƀuăn rơ̆ng tui anai, “Kâo ƀu thâo krăn ôh Pô anŭn!”
72Ƀơi mông anŭn mơtam, mơnŭ tơdjô̆ tal dua. Giŏng anŭn, Pêtrôs hơdơr glaĭ boh hiăp Yêsu hơmâo laĭ laih kơ ñu tui anai, “Hlâo kơ mơnŭ tơdjô̆, klâo wơ̆t mơtam yơh ih či hơngah ƀu thâo krăn ôh Kâo.” Laih anŭn Ñu hơƀlơ̆k glaĭ hăng hia yơh.