14

Sự đau đớn, chết và sống lại của Đức Chúa Jêsus

(Từ đoạn 14 đến đoạn 16)

Sự lập mưu của các thầy tế lễ

(Mat 26:1-5; Lu 22:1,2; Gi 11:45-53)

1 Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ ăn bánh không men, các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo tìm mưu đặng bắt Đức Chúa Jêsus và giết đi. 2 Vì họ nói rằng: Chẳng nên làm việc nầy trong ngày lễ, sợ sanh sự xôn xao trong dân chúng.

Chúa chịu xức dầu tại Bê-tha-ni

(Mat 26:6-13; Gi 12:1-8)

3 Đức Chúa Jêsus ở tại làng Bê-tha-ni, trong nhà Si-môn là kẻ phung. Ngài đương ngồi bàn ăn, có một người đàn bà vào, đem một cái bình bằng ngọc, đựng đầy dầu cam tòng thật rất quí giá, đập bể ra mà đổ dầu thơm trên đầu Đức Chúa Jêsus. 4 Có vài người nổi giận nói cùng nhau rằng: Sao xài phí dầu thơm ấy như vậy? 5 Vì có thể bán dầu đó được hơn ba trăm đơ-ni-ê, mà bố thí cho kẻ khó khăn. Vậy, họ oán trách người. 6 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để mặc người; sao các ngươi làm rầy người mà chi? Người đã làm một việc tốt cho ta. 7 Vì các ngươi hằng có kẻ khó khăn ở cùng mình, khi nào muốn làm phước cho họ cũng được; nhưng các ngươi chẳng có ta ở luôn với đâu. 8 Người đã làm điều mình có thể làm được, đã xức xác ta trước để chôn. 9 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin lành nầy được giảng ra, việc người đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người.

Đứa phản Chúa

(Mat 26:14-16; Lu 22:3-6)

10 Bấy giờ, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một trong mười hai sứ đồ, đến nơi các thầy tế lễ cả, để nộp Đức Chúa Jêsus cho. 11 Họ vui lòng mà nghe, và hứa cho nó tiền bạc; rồi Giu-đa tìm dịp tiện để nộp Ngài.

Sự lập lễ Tiệc thánh

(Mat 26:17-30; Lu 22:7-20; Gi 13:21-30)

12 Ngày thứ nhứt về lễ ăn bánh không men, là ngày giết chiên con làm lễ Vượt qua, các môn đồ thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Thầy muốn chúng tôi đi dọn cho thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu? 13 Ngài sai hai môn đồ đi, và dặn rằng: Hãy vào thành, sẽ gặp một người xách vò nước; cứ theo sau, 14 hễ người vào nhà nào, các ngươi sẽ nói cùng chủ nhà ấy rằng: Thầy phán: Cái phòng ta sẽ dùng ăn lễ Vượt qua với môn đồ ta ở đâu? 15 Chính kẻ đó sẽ chỉ cho các ngươi một cái phòng lớn trên lầu có đồ đạc sẵn sàng, hãy dọn tại đó cho chúng ta. 16 Vậy, hai môn đồ đi ra mà vào thành, gặp mọi điều như lời Ngài đã phán, rồi dọn lễ Vượt qua.
17 Buổi chiều, Ngài đến với mười hai sứ đồ. 18 Đang ngồi ăn, Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong vòng các ngươi có một kẻ ngồi ăn cùng ta, sẽ phản ta. 19 Các môn đồ bèn buồn rầu lắm, cứ lần lượt mà thưa cùng Ngài rằng: Có phải tôi chăng? 20 Ngài đáp rằng: ấy là một trong mười hai người, là người thò tay vào mâm cùng ta. 21 Vì Con người đi, y như lời đã chép về Ngài; song khốn cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn.
22 Khi đang ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn, đoạn bẻ ra trao cho các môn đồ, mà phán rằng: Hãy lấy, nầy là thân thể ta. 23 Ngài lại cầm chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đồ, và ai nấy đều uống. 24 Ngài phán rằng: Nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều người. 25 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày ta sẽ uống trái nho mới trong nước Đức Chúa Trời.

Chúa bảo trước cho Phi-e-rơ

(Mat 26:31-35; Lu 22:31-34; Gi 13:36-38)

26 Khi đã hát thơ thánh rồi, Chúa và môn đồ đi ra đặng lên núi Ô-li-ve. 27 Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp phạm; vì có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc. 28 Nhưng khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi. 29 Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, nhưng tôi chẳng hề làm vậy. 30 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay, cũng trong đêm nay, trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần. 31 Nhưng Phi-e-rơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu. Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy.

Vườn Ghết-sê-ma-nê. – Chúa bị bắt

(Mat 26:36-56; Lu 22:39-43.– Gi 18:3-12)

32 Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện. 33 Ngài bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não. 34 Ngài phán cùng ba người rằng: Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức. 35 Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng nếu có thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình. 36 Ngài rằng: A-ba, lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn. 37 Rồi Ngài trở lại, thấy ba người ngủ; bèn phán cùng Phi-e-rơ rằng: Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao? 38 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối. 39 Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện y như lời trước. 40 Ngài trở lại, thấy môn đồ còn ngủ, vì con mắt đã đừ quá; và không biết trả lời cùng Ngài thể nào. 41 Ngài trở lại lần thứ ba, phán cùng môn đồ rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! Thôi, giờ đã tới rồi; nầy, Con người hầu bị nộp trong tay kẻ có tội. 42 Hãy chờ dậy, đi hè; kìa, đứa phản ta đã đến gần. 43 Ngài đương còn phán, tức thì Giu-đa, là một trong mười hai sứ đồ thoạt đến với một toán đông cầm gươm và gậy, bởi các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão phái đến. 44 Vả, đứa phản Ngài đã cho chúng dấu hiệu nầy: Hễ tôi hôn ai, ấy là người đó; hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận. 45 Vậy, khi Giu-đa đến rồi, liền lại gần Ngài mà nói rằng: Lạy thầy! Rồi nó hôn Ngài. 46 Chúng bèn tra tay bắt Đức Chúa Jêsus. 47 Có một người trong những kẻ ở đó rút gươm ra, đánh một đứa đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém đứt tai đi. 48 Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến bắt ta như ta là kẻ trộm cướp. 49 Ta hằng ngày ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ, mà các ngươi không bắt ta; nhưng điều ấy xảy đến, để lời Kinh thánh được ứng nghiệm. 50 Bấy giờ, mọi người đều bỏ Ngài và trốn đi cả.
51 Có một người trẻ tuổi kia theo Ngài, chỉ có cái khăn bằng gai trùm mình; chúng bắt người. 52 Nhưng người bỏ khăn lại, ở truồng chạy trốn khỏi tay chúng.

Đức Chúa Jêsus trước mặt Cai-phe. – Phi-e-rơ chối Chúa

(Mat 26:57-75; Lu 22:54-71; Gi 18:13-27)

53 Chúng điệu Đức Chúa Jêsus đến nơi thầy cả thượng phẩm, có hết thảy thầy tế lễ cả, trưởng lão, và thầy thông giáo nhóm họp tại đó. 54 Phi-e-rơ theo sau Ngài xa xa, cho đến nơi sân trong của thầy cả thượng phẩm; rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi. 55 Vả, các thầy tế lễ cả, cùng cả tòa công luận đều tìm chứng gì để nghịch cùng Đức Chúa Jêsus đặng giết Ngài, song không kiếm được chi hết. 56 Vì có nhiều kẻ làm chứng dối nghịch cùng Ngài; nhưng lời họ khai chẳng hiệp nhau. 57 Bấy giờ có mấy người đứng lên làm chứng dối nghịch cùng Ngài rằng: 58 chúng tôi có nghe người nói: Ta sẽ phá đền thờ nầy bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày ta sẽ cất một đền thờ khác không phải bởi tay người ta cất. 59 Song về điều nầy, lời chứng của họ cũng chẳng hiệp nhau nữa.
60 Khi ấy, thầy cả thượng phẩm đứng dậy giữa hội đồng, tra hỏi Đức Chúa Jêsus mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết về những điều các kẻ nầy cáo ngươi sao? 61 Nhưng Đức Chúa Jêsus làm thinh, không trả lời chi hết. Thầy cả thượng phẩm lại hỏi: Ấy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không? 62 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta chính phải đó; các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến. 63 Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà rằng: Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi? 64 Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng? Các ngươi nghĩ thế nào: Ai nấy đều đoán Ngài đáng chết.
65 Có kẻ nhổ trên Ngài, đậy mặt Ngài lại, đấm Ngài, và nói với Ngài rằng: Hãy nói tiên tri đi! Các lính canh lấy gậy đánh Ngài.
66 Phi-e-rơ đương ở dưới nơi sân, có một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm đến, 67 thấy Phi-e-rơ đương sưởi, ngó người mà rằng: Ngươi trước cũng ở với Jêsus Na-xa-rét! 68 Nhưng người chối rằng: Ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi. Đoạn, người bước ra tiền đàng, thì gà gáy. 69 Đầy tớ gái đó thấy người, lại nói cùng những người ở đó rằng: Người nầy cũng là bọn đó. 70 Nhưng người lại chối một lần nữa. Khỏi một chặp, những kẻ đứng đó nói cùng Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng là bọn đó, vì ngươi là người Ga-li-lê. 71 Người bèn rủa mà thề rằng: Ta chẳng hề quen biết với người mà các ngươi nói đó! 72 Tức thì gà gáy lần thứ hai; Phi-e-rơ bèn nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán rằng: Trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần. Người tưởng đến thì khóc.

14

Klei Trông Čhai Čiăng Bi Mdjiê Yêsu

(Mat 26:1-5; Luk 22:1-2; Yôh 11:45-53)

1 Adôk dua hruê tơl truh Knăm Klei Găn leh anăn Knăm Kpŭng Amâo Mâo Kpei. Phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn phung khua čih hră duah êlan dưi mă čăp Yêsu hŏng klei hgăm leh anăn bi mdjiê gơ̆. 2Kyuadah diñu lač, “Đăm ngă ôh êjai hruê knăm, huĭdah phung ƀuôn sang ngă klei rŭng răng.”

H'Mari Trôč Êa Ƀâo Mngưi kơ Yêsu Ti Ƀuôn Ƀêthani

(Mat 26:6-13; Yôh 12:1-8)

3 Hlăk Yêsu dôk ti ƀuôn Ƀêthani hlăm sang Y-Simôn pô djŏ phŭng, êjai Ñu dôk huă ƀơ̆ng, mâo sa čô mniê djă sa boh giêt ngă hŏng boh tâo siam mâo êa ƀâo mngưi nard phŭn yuôm snăk. Mniê anăn bi mčah giêt leh anăn hlĭng êa ƀâo mngưi ti dlông boh kŏ Yêsu. 4Ƀiădah mâo đa đa ăl, lač hdơ̆ng diñu, “Si ngă bi liê hơăi mang êa ƀâo mngưi msĕ snăn? 5Arăng dưi čhĭ êa ƀâo mngưi anei êbeh kơ tlâo êtuh đơniê leh anăn bi mbha kơ phung ƀun ƀin.” Leh anăn diñu ƀuah mniê anăn. 6Ƀiădah Yêsu lač, “Lui măng ai gơ̆. Si ngă diih bi rŭng gơ̆? Gơ̆ ngă klei jăk kơ kâo. 7 Diih mâo phung ƀun ƀin mbĭt hŏng diih nanao, leh anăn êla diih čiăng diih dưi ngă klei jăk kơ diñu. Ƀiădah kâo amâo srăng dôk mbĭt hŏng diih nanao ôh. 8Mniê anei ngă tui si gơ̆ dưi. Gơ̆ trôč êa ƀâo mngưi ti asei mlei kâo mprăp êlâo kơ klei arăng dơr kâo. 9Kâo lač kơ diih sĭt nik, ti anôk arăng mtô klei mrâo mrang jăk tar ƀar lăn ala, arăng srăng yăl dliê klei mniê anei ngă leh, čiăng bi hdơr kơ ñu.”

Y-Yuđas Lhiăr kơ Yêsu

(Mat 26:14-16; Luk 22:3-6)

10Leh anăn Y-Yuđas Iskariôt, sa čô hlăm phung pluh dua čô ƀĭng kna, nao kơ phung knơ̆ng khua ngă yang čiăng lhiăr leh anăn jao Yêsu kơ diñu. 11Leh diñu hmư̆ klei anăn diñu hơ̆k mơak leh anăn ƀuăn brei prăk kơ Y-Yuđas. Snăn Y-Yuđas duah mông găl dưi lhiăr gơ̆.

Yêsu Ƀơ̆ng Knăm Klei Găn Mbĭt hŏng Phung Ƀĭng Kna Ñu

(Mat 26:17-25; Luk 22:7-14,21-23; Yôh 13:21-30)

12Hruê tal sa hlăm Knăm Ƀơ̆ng Kpŭng Amâo Mâo Kpei, hruê arăng koh bi mdjiê êđai biăp Knăm Klei Găn, phung ƀĭng kna êmuh kơ Yêsu, “Ti anôk ih čiăng hmei nao mkra brei ih ƀơ̆ng Knăm Klei Găn lĕ?” 13Ñu tiŏ nao dua čô ƀĭng kna Ñu leh anăn lač kơ digơ̆, “Nao mŭt hlăm ƀuôn, leh anăn sa čô êkei pŭ sa boh abŭ êa srăng tuôm hŏng diih. Tui hlue gơ̆, 14ti sang ñu mŭt, brei diih lač kơ pô sang anăn, ‘Nai lač, Ti adŭ kâo srăng ƀơ̆ng Knăm Klei Găn mbĭt hŏng phung ƀĭng kna kâo?’ 15Mnuih anăn srăng ktrâo brei kơ diih sa boh adŭ prŏng ti tal dlông arăng mprăp mkra brei leh. Ti anôk anăn brei diih mkra kơ drei.” 16Phung ƀĭng kna anăn nao mŭt hlăm ƀuôn leh anăn ƀuh jih jang mnơ̆ng tui si Yêsu lač leh kơ diñu. Leh anăn diñu mkra Knăm Klei Găn.
17Tơdah adiê tlam leh, Yêsu hriê mbĭt hŏng phung pluh dua čô. 18 Êjai diñu dôk ti jhưng huă ƀơ̆ng Yêsu lač, “Sĭt nik kâo lač kơ diih, sa čô hlăm phung diih srăng lhiăr kơ kâo, pô anăn dôk huă ƀơ̆ng mbĭt hŏng kâo.” 19Diñu dơ̆ng ênguôt, leh anăn sa čô sa čô diñu lač kơ Yêsu, “Amâo djŏ kâo ôh yơ̆?” 20Yêsu lač kơ diñu, “Pô anăn jing sa čô hlăm phung pluh dua čô, pô đrŭt kpŭng ñu hlăm jam mbĭt hŏng kâo. 21Anak Mnuih srăng djiê tui si Klei Aê Blŭ čih leh djŏ kơ Ñu, ƀiădah knap mñai yơh kơ pô lhiăr kơ Anak Mnuih! Jăk hĭn arăng amâo tuôm kkiêng ôh kơ pô anăn.”

Klei Ƀơ̆ng Mnăm Sĭt Suôr

(Mat 26:26-30; Luk 22:14-20; I Kôr 11:23-25)

22Êjai diñu dôk huă ƀơ̆ng, Yêsu mă kpŭng, wah lač klei bi mni, kjoh kpŭng anăn, leh anăn brei kơ digơ̆ leh anăn lač, “Mă bĕ; anei jing asei mlei kâo.” 23Leh anăn Ñu mă atŏ. Leh wah lač klei bi mni, Ñu brei atŏ anăn kơ digơ̆, leh anăn jih jang digơ̆ mnăm. 24 Yêsu lač kơ digơ̆, “Anei jing êrah kâo, êrah kơ klei bi mguôp tuh brei kơ lu mnuih. 25Sĭt nik kâo lač kơ diih, kâo amâo srăng lŏ mnăm ôh êa boh kriăk ƀâo tơl hruê kâo srăng mnăm êa boh kriăk ƀâo mrâo hlăm ƀuôn ala mtao Aê Diê.” 26Leh diñu mmuñ sa klei, diñu kbiă nao kơ čư̆ Ôliwơ.

Yêsu Hưn Êlâo Klei Y-Pêtrôs Srăng Hngah kơ Ñu

(Mat 26:31-35; Luk 22:31-34; Yôh 13:36-38)

27 Yêsu lač kơ diñu, “Jih jang diih srăng klah đuĕ lui kâo; kyuadah Klei Aê Diê Blŭ čih leh,
  ‘Kâo srăng čăm mgăt biăp,
   leh anăn jih jang biăp srăng klah đuĕ mdê mdê.’
28 Ƀiădah leh kâo kbiă lŏ hdĭp, kâo srăng nao êlâo kơ diih kơ čar Galilê.” 29Y-Pêtrôs lač kơ Ñu, “Wăt tơdah jih jang srăng lui ih, kâo amâo srăng lui ôh.” 30Yêsu lač kơ gơ̆, “Sĭt nik kâo lač kơ ih, mlam anei yơh, êlâo kơ mnŭ knô kdjô̆ dua bliư̆, ih srăng hngah kơ kâo tlâo bliư̆.” 31Ƀiădah Y-Pêtrôs lač hŏng klei ktang, “Wăt tơdah kâo djiê mbĭt hŏng ih dưn, kâo amâo srăng hngah kơ ih ôh.” Leh anăn jih jang diñu lač klei msĕ.

Yêsu Wah Lač Hlăm War Mnga Gêtsêmanê

(Mat 26:36-46; Luk 22:39-46)

32Diñu nao kơ anôk arăng pia Gêtsêmanê, leh anăn Yêsu lač kơ phung ƀĭng kna Ñu, “Dôk gŭ bĕ tinei êjai kâo wah lač.” 33Leh anăn Ñu jak ba Y-Pêtrôs, Y-Yakơ, leh anăn Y-Yôhan nao mbĭt hŏng Ñu, leh anăn Ñu dơ̆ng mâo klei ênguôt prŏng leh anăn klei rŭng răng. 34Ñu lač kơ digơ̆, “Ai tiê kâo ênguôt snăk păt čiăng djiê. Dôk tinei leh anăn kăp răng bĕ.” 35Ñu nao kbưi ƀiă, klăm asei mlei ti lăn, leh anăn wah lač, čiăng kơ tơdah dưi mông anăn amâo truh kơ Ñu ôh. 36Leh anăn Ñu lač, “Aba, Ơ Ama ơi, jih jang mnơ̆ng ih dưi ngă sơăi. Mă mđuĕ hĕ atŏ anei mơ̆ng kâo. Amâo djŏ tui si klei kâo čiăng ôh, ƀiădah tui si klei ih pô čiăng.” 37Leh anăn Ñu lŏ hriê kơ phung ƀĭng kna Ñu leh anăn ƀuh digơ̆ dôk pĭt. Ñu lač kơ Y-Pêtrôs, “Ơ Y-Simôn, ih dôk pĭt hĕ? Ih amâo dưi hĕ dôk krŏng knŏng sa mông? 38Brei diih kăp răng bĕ leh anăn wah lač, čiăng kơ diih amâo lĕ hlăm klei mplư ôh. Mngăt čiăng snăk, ƀiădah kđeh jing awăt.” 39Yêsu lŏ nao leh anăn wah lač klei msĕ si êlâo. 40Ñu lŏ hriê leh anăn ƀuh phung ƀĭng kna ăt dôk pĭt, kyuadah digơ̆ amâo lŏ dưi mblang ală ôh. Leh anăn digơ̆ amâo thâo ôh ya klei lŏ wĭt lač kơ Yêsu. 41Ñu lŏ hriê tal tlâo leh anăn lač kơ digơ̆, “Diih ăt dôk pĭt leh anăn dôk mdei hĕ? Man dŭm năn, mông truh leh. Arăng dơ̆ng jao Anak Mnuih hlăm kngan phung soh. 42Kgŭ nao bĕ drei. Nĕ anei, pô lhiăr kơ kâo truh leh.”

Klei Mă Čăp Yêsu

(Mat 26:47-56; Luk 22:47-53; Yôh 18:3-12)

43Êjai Yêsu ăt dôk blŭ, Y-Yuđas, sa čô hlăm phung pluh dua čô, truh mtam mbĭt hŏng sa phung lu djă đao gưm leh anăn giê mơ̆ng phung knơ̆ng khua ngă yang, phung khua čih hră, leh anăn phung khua mduôn. 44Pô lhiăr brei leh sa klei bi knăl kơ phung lu, lač, “Pô kâo srăng čŭm, ñu yơh anăn. Čăp ñu leh anăn atăt ba ñu bi truh.” 45Tơdah Y-Yuđas truh, gơ̆ nao kơ Yêsu mtam leh anăn lač, “Ơ Nai,” leh anăn čŭm Yêsu. 46Phung anăn mă čăp Yêsu. 47Ƀiădah sa čô dôk giăm suê̆ đao gưm ñu leh anăn koh tloh knga sa čô dĭng buăl khua ngă yang prŏng. 48Yêsu lač kơ phung anăn, “Si ngă diih hriê djă đao gưm leh anăn giê čiăng mă čăp kâo msĕ si sa čô knĕ? 49 Grăp hruê kâo dôk mbĭt hŏng diih mtô hlăm Sang Kkuh Mpŭ, ƀiădah diih amâo mă čăp kâo ôh. Ƀiădah anei jing klei bi sĭt Klei Aê Diê Blŭ čih leh.” 50Hlăk anăn jih jang phung ƀĭng kna lui Yêsu leh anăn êran đuĕ.
51Mâo sa čô êkei hlăk ai guêč knŏng sa blah čhiăm kbuă tui hlue Yêsu. 52Diñu mă êkei anăn, ƀiădah gơ̆ lui hĕ čhiăm kbuă anăn leh anăn êran đuĕ asei lưng.

Yêsu Ti Anăp Phung Khua Phat Kđi

(Mat 26:57-68; Luk 22:54-55,63-71; Yôh 18:13-14,19-24)

53Diñu atăt ba Yêsu kơ khua ngă yang prŏng. Jih jang phung knơ̆ng khua ngă yang, phung khua mduôn, leh anăn phung khua čih hră bi kƀĭn mbĭt. 54Y-Pêtrôs tui hlue Yêsu mơ̆ng kbưi, mŭt hlăm wăl sang khua ngă yang prŏng. Ñu dôk gŭ mbĭt hŏng phung kahan gak leh anăn mdang pui tinăn. 55Phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn jih jang phung khua gai gĭt ƀuôn sang duah klei kčŭt kơ Yêsu čiăng bi mdjiê gơ̆, ƀiădah diñu amâo ƀuh ôh. 56Kyuadah lu mnuih kčŭt mčeh kơ Yêsu, ƀiădah klei digơ̆ mčeh anăn amâo sa ai ôh. 57Mâo đa đa kgŭ dơ̆ng leh anăn mčeh kơ Yêsu, lač, 58 “Hmei hmư̆ leh ñu lač, ‘Kâo srăng bi rai hĕ Sang Kkuh Mpŭ anei kngan mnuih ngă, leh anăn hlăm tlâo hruê kâo srăng lŏ mdơ̆ng sa boh sang yang mkăn, amâo djŏ kngan mnuih ngă ôh.’ ” 59Ƀiădah wăt klei digơ̆ hưn anăn ăt kăn jing msĕ rei. 60Khua ngă yang prŏng kgŭ dơ̆ng ti anăp diñu leh anăn êmuh Yêsu, “Ih amâo mâo klei lŏ wĭt lač hĕ kơ ya klei phung anei kčŭt kơ ih?” 61Ƀiădah Yêsu dôk ñăt, amâo blŭ sa boh ôh. Lŏ sa bliư̆ khua ngă yang prŏng êmuh kơ Yêsu, “Ih jing Yang Krist, Anak Aê Diê Pô arăng hơêč hmưi mơ̆?” 62 Yêsu lač, “Kâo gơ̆ yơh, leh anăn diih srăng ƀuh Anak Mnuih dôk gŭ tĭng hnuă kơ Pô Myang leh anăn lŏ hriê ti knam hlăm adiê.” 63Khua ngă yang prŏng hiêk ao jhung ñu leh anăn lač, “Ya drei lŏ čiăng kơ phung hưn? 64Diih hmư̆ leh klei ñu blŭ mgao hŏng Aê Diê. Ya klei diih mĭn?” Jih jang diñu phat kđi Yêsu jing năng kơ klei djiê. 65Đa đa dơ̆ng kčuh êa bah kơ gơ̆, guôm ƀô̆ mta gơ̆, tŭk gơ̆, leh anăn lač, “Hưn êlâo bĕ!” Leh anăn phung kahan kiă mă gơ̆ leh anăn pah miêng gơ̆.

Y-Pêtrôs Hngah kơ Yêsu

(Mat 26:69-75; Luk 22:56-62; Yôh 18:15-18,25-27)

66Êjai Y-Pêtrôs dôk anôk ti gŭ hlăm wăl sang, sa čô dĭng buăl mniê khua ngă yang prŏng hriê. 67Êjai Y-Pêtrôs dôk mdang pui, mniê anăn dlăng kơ ñu leh anăn lač, “Ih msĕ mơh dôk leh mbĭt hŏng Yêsu ƀuôn Nasaret.” 68Ƀiădah Y-Pêtrôs hngah klei anăn leh anăn lač, “Kâo amâo thâo ôh, kăn thâo săng rei ya klei ih lač anăn.” Y-Pêtrôs kbiă nao kơ ƀăng jang. Hlăk anăn sa drei mnŭ knô kdjô̆. 69Dĭng buăl mniê anăn lŏ ƀuh ñu leh anăn lŏ dơ̆ng lač kơ phung mnuih dôk giăm, “Êkei anei jing sa čô hlăm phung diñu.” 70Ƀiădah Y-Pêtrôs lŏ hngah klei anăn. Ƀiă riă tinăn phung dôk giăm lač kơ Y-Pêtrôs, “Sĭt nik ih jing sa čô hlăm phung anăn, kyuadah ih jing mnuih čar Galilê.” 71Ƀiădah Y-Pêtrôs dơ̆ng tăm pah kơ ñu pô leh anăn kat asei, “Kâo amâo thâo kral ôh mnuih diih lač anăn.” 72Hlăk anăn mtam mnŭ knô kdjô̆ tal dua. Y-Pêtrôs hdơr kơ klei Yêsu lač leh kơ ñu, “Êlâo kơ mnŭ knô kdjô̆ tal dua ih srăng hngah kơ kâo tlâo bliư̆.” Leh anăn ñu ênguôt snăk kơ klei anăn, ñu hia mtam yơh.