9

Chúa chữa bịnh bại

(Mac 2:1-11; Lu 5:15-26)

1 Đức Chúa Jêsus xuống thuyền lại trở qua biển và đến thành mình. 2 Nầy, có người đem lại cho Ngài một người đau bại nằm trên giường. Đức Chúa Jêsus thấy đức tin của các người đó, thì phán cùng người bại rằng: Hỡi con, hãy vững lòng, tội lỗi con đã được tha. 3 Khi ấy, có một vài thầy thông giáo đều nghĩ thầm rằng: Người nầy nói lộng ngôn. 4 Song Đức Chúa Jêsus biết ý tưởng mấy thầy đó, thì phán rằng: Nhân sao trong lòng các ngươi có ác tưởng làm vậy? 5 Trong hai lời nầy: Một là nói, tội lỗi ngươi đã được tha; hai là nói, ngươi hãy đứng dậy mà đi, thì lời nào dễ nói hơn? 6 Vả, hầu cho các ngươi biết Con người ở thế gian có quyền tha tội. Rồi Ngài phán cùng người bại rằng: Hãy đứng dậy, vác lấy giường, mà trở về nhà ngươi. 7 Người bại liền dậy mà trở về nhà mình. 8 Đoàn dân thấy phép lạ đó, thì ai nấy đều sợ hãi, và ngợi khen Đức Chúa Trời đã cho người ta được phép tắc dường ấy.

Chúa gọi Ma-thi-ơ. – Sự kiêng ăn

(Mac 2:13-17; Lu 5:27-32)

9 Đức Chúa Jêsus đã đi khỏi nơi đó rồi, thấy một người tên là Ma-thi-ơ đương ngồi tại sở thâu thuế, bèn phán cùng người rằng: Hãy theo ta. Người liền đứng dậy, mà theo Ngài.
10 Vả, đương khi Đức Chúa Jêsus ngồi ăn tại nhà Ma-thi-ơ, có nhiều người thâu thuế cùng kẻ xấu nết đến ngồi ăn với Ngài và môn đồ Ngài. 11 Người Pha-ri-si thấy vậy, thì nói cùng môn đồ Ngài rằng: Làm sao thầy các ngươi ngồi ăn chung với người thâu thuế và kẻ xấu nết vậy? 12 Đức Chúa Jêsus nghe điều đó, bèn phán rằng: Chẳng phải là người khỏe mạnh cần thầy thuốc đâu, song là người có bịnh. 13 Hãy đi, và học cho biết câu nầy nghĩa là gì: Ta muốn sự thương xót, nhưng chẳng muốn của lễ. Vì ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội.
14 Khi ấy, các môn đồ của Giăng đến tìm Đức Chúa Jêsus, mà thưa rằng: Cớ sao chúng tôi và những người Pha-ri-si kiêng ăn, còn môn đồ thầy không kiêng ăn? 15 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Trong khi chàng rể còn ở với bạn hữu đến mừng cưới, thì những bạn hữu đó có thể nào buồn rầu được ư? Nhưng đến ngày nào chàng rể sẽ bị đem đi khỏi họ, thì họ mới kiêng ăn. 16 Không có ai vá miếng nỉ mới vào cái áo cũ; vì nếu làm vậy, miếng nỉ mới sẽ chằng rách áo cũ, và đàng rách trở nên xấu hơn. 17 Cũng không có ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu làm vậy thì bầu nứt, rượu chảy ra, và bầu phải hư; song ai nấy đổ rượu mới vào bầu mới, thì giữ được cả hai bề.

Con gái Giai-ru và người đàn bà mất huyết

(Mac 5:21-43; Lu 8:40-56)

18 Đang khi Đức Chúa Jêsus phán các điều đó, xảy có người cai nhà hội kia bước vào, quì lạy trước mặt Ngài mà thưa rằng: Con gái tôi mới chết; xin Chúa đến, đặt tay trên nó, thì nó sẽ được sống. 19 Đức Chúa Jêsus bèn đứng dậy, cùng môn đồ Ngài đều đi theo người.
20 Nầy, có một người đàn bà mắc bịnh mất huyết đã mười hai năm, lại gần sau lưng mà rờ trôn áo Ngài. 21 Vì người đàn bà ấy tự nghĩ rằng: Nếu ta chỉ rờ áo Ngài, thì cũng sẽ được lành. 22 Đức Chúa Jêsus xây mặt lại, thấy người đàn bà, thì phán rằng: Hỡi con, hãy vững lòng, đức tin con đã làm cho con được lành. Liền trong giờ đó, người đàn bà lành bịnh.
23 Khi Đức Chúa Jêsus đến nhà người cai nhà hội, thấy bọn thổi sáo, và chúng làm om sòm, 24 thì phán rằng: Các ngươi hãy lui ra; con gái nhỏ nầy chẳng phải chết đâu, nhưng nó ngủ. Chúng nghe thì chê cười Ngài. 25 Bọn đó đã bị đuổi ra rồi, Ngài bèn vào, cầm lấy tay đứa gái, thì nó liền chờ dậy. 26 Tin nầy đồn ra khắp cả xứ đó.

Chúa chữa các tật bịnh khác

27 Đức Chúa Jêsus ở đó ra đi, có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: Hỡi con cháu vua Đa-vít, xin thương chúng tôi cùng! 28 Khi Ngài đã vào nhà rồi, hai người mù đến; Ngài bèn phán rằng: Hai ngươi tin ta làm được điều hai ngươi ao ước sao? Họ thưa rằng: Lạy Chúa, được. 29 Ngài bèn rờ mắt hai người mà phán rằng: Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy. 30 Mắt hai người liền mở. Đức Chúa Jêsus lấy giọng nghiêm phán rằng: Hãy giữ, đừng cho ai biết chuyện nầy. 31 Song lúc hai người ra khỏi nhà, thì đồn danh tiếng Ngài khắp cả xứ.
32 Khi đi khỏi chỗ đó, thì người ta đem tới cho Ngài một người câm bị quỉ ám. 33 Quỉ bị đuổi ra rồi, thì người câm nói được. Đoàn dân lấy làm lạ mà nói rằng: Không hề bao giờ thấy sự như vậy trong dân Y-sơ-ra-ên. 34 Nhưng người Pha-ri-si lại nói rằng: Người nầy cậy phép chúa quỉ mà trừ quỉ.
35 Đức Chúa Jêsus đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng tin lành nước Đức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật bịnh. 36 Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn. 37 Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì thật trúng, song con gặt thì ít. 38 Vậy, hãy cầu xin chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa mình.

9

Yêsu Pơsuaih Mơnuih Rơwen Rơwo

(Markôs 2:1-12; Luk 5:17-26)

1Giŏng anŭn, Yêsu đĭ sŏng găn ia dơnao laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ plei pla Ñu pô.
2Tơdang Ñu truh laih, anai nê hơmâo ƀing arăng ba rai pơ Ñu sa čô mơnuih rơwen rơwo dŏ đih ƀơi sa blah kiao. Tơdang Yêsu ƀuh tơlơi đaŏ gơñu, Ñu pơtrŭt mơnuih rơwen rơwo anŭn tui anai, “Ơ gơyut ăh, dŏ kơjăp pran jua bĕ! Tơlơi soh ih Kâo pap brơi laih.”
3Ƀơi mông anŭn, anai nê hơmâo dua klâo čô ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt pơlaĭ hăng tơdruă gơñu tui anai, “Mơnuih anai pơhiăp ƀrưh mơhiăh kơ Ơi Adai biă mă.”
4Tơdang thâo krăn tơlơi pơmĭn jŭ̱ sat gơñu, Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Yua hơget ƀing gih hơmâo tơlơi pơmĭn jŭ̱ sat anŭn amăng pran jua gih lĕ? 5Amuñ yơh tơdah pơhiăp tui anai, ‘Tơlơi soh ih Kâo hơmâo pap brơi laih,’ laih anŭn ăt amuñ mơ̆n tơdah pơhiăp, ‘Tơgŭ bĕ laih anŭn rơbat nao bĕ.’ 6Samơ̆, Kâo či pơrơklă kơ ƀing gih, sĭt yơh Kâo, jing Ană Mơnuih, hơmâo tơlơi dưi pap brơi tơlơi soh pơ lŏn tơnah anai.” Giŏng anŭn, Ñu laĭ kơ mơnuih rơwen rơwo anŭn tui anai, “Tơgŭ bĕ, djă̱ ba bĕ kiao ih hăng rơbat glaĭ hiam klă bĕ pơ sang ih.” 7Tui anŭn, pô rơwen rơwo anŭn pơyôt tơgŭ laih anŭn glaĭ pơ sang ñu pô yơh. 8Tơdang ƀing mơnuih lu ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu dŏ kơtuă huĭ pơpŭ biă mă laih anŭn bơni hơơč kơ Ơi Adai, yuakơ Ñu hơmâo brơi laih kơ mơnuih hơmâo tơlơi mơyang kar hăng anŭn.

Yêsu Iâu Mathiơ Kiăng Jing Ding Kơna Ñu

(Markôs 2:13-17; Luk 5:27-32)

9Tơdang Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn laih, Ñu ƀuh sa čô mơnuih ring jia anăn gơ̆ Mathiơ hlak dŏ ƀơi anih mă jia. Yêsu laĭ kơ ñu tui anai, “Đuaĭ tui Kâo bĕ!” Mathiơ tơgŭ laih anŭn đuaĭ tui hăng Yêsu mơtam.
10Tơdơi kơ anŭn, tơdang Yêsu hlak dŏ ƀơ̆ng huă amăng sang Mathiơ, ăt hơmâo lu ƀing ring jia wơ̆t hăng ƀing mơnuih soh sat pơkŏn mơ̆n rai ƀơ̆ng huă hrŏm hăng Yêsu laih anŭn hăng ƀing ding kơna Ñu. 11Tơdang ƀing Pharisai ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu tơña kơ ƀing ding kơna Yêsu tui anai, “Yua hơget nai gih dŏ ƀơ̆ng huă hăng ƀing ring jia laih anŭn hăng ƀing soh sat pơkŏn lĕ?”
12Samơ̆ tơdang Yêsu hơmư̆ tơlơi anŭn, Ñu laĭ glaĭ kơ ƀing Pharisai anŭn tui anai, “Ƀu djơ̆ ƀing mơnuih hiam drơi jan ôh kiăng kơ nai pơjrao, samơ̆ ƀing mơnuih duăm ruă yơh kiăng. 13Samơ̆ ƀing gih nao hrăm bĕ brơi thâo hluh Tơlơi Ơi Adai kiăng pơtô tơdang Ñu laĭ,
  “ ‘Kâo ƀu khăp kiăng ôh gơnam pơyơr ngă yang,
   samơ̆ Kâo khăp kiăng kơ tơlơi khăp pap yơh.’
“Tui anŭn, bơ kơ Kâo, Kâo rai ƀu djơ̆ iâu ƀing mơnuih tơpă hơnơ̆ng ôh, samơ̆ iâu ƀing mơnuih soh sat yơh.”

Ding Kơna Yôhan Pô Ngă Baptem Tơña Kơ Tơlơi Iâu Laĭ Kŏm Ƀơ̆ng Huă

(Markôs 2:18-22; Luk 5:33-39)

14Giŏng anŭn, đơđa ƀing ding kơna Yôhan rai tơña kơ Yêsu tui anai, “Yua hơget ƀing gơmơi wơ̆t hăng ƀing Pharisai juăt iâu laĭ kŏm ƀơ̆ng huă, samơ̆ ƀing ding kơna Ih ƀu či iâu laĭ kŏm ƀơ̆ng huă ôh lĕ?”
15Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Hiư̆m ngă, tơdang met han hlak dŏ hơbĭt hăng ƀing gơyut gơyâo ñu amăng tơlơi phet, djơ̆ mơ̆ ƀing gơyut ñu anŭn čŏk hia? Ƀu djơ̆ ôh. Samơ̆ tơdang hrơi mông truh laih, laih anŭn arăng mă pơđuaĭ hĭ met han anŭn mơ̆ng ƀing gơñu, hrơi anŭn yơh ƀing gơñu či iâu laĭ kŏm ƀơ̆ng huă.”
16“Ƀu hơmâo ôh hlơi pô sĭt bal bơnăl phrâo ƀơi ao so tơĭ laih, yuakơ tơdah ñu ngă tui anŭn, khul bơnăl phrâo anŭn či kơčŭn glaĭ hăng pơtơĭ hĭ ao so laih anŭn pơhluh hĭ prŏng tui yơh. 17Kar kaĭ mơ̆n, ƀu hơmâo ôh hlơi pô tro pioh tơpai phrâo amăng ge̱t klĭ so, yuakơ tơdah ñu ngă tui anŭn, tơpai anŭn či pơrơbô̆ đĭ hăng ngă kơ ge̱t klĭ so či pơtŭh hĭ mơtam yơh; tơpai anŭn či hŏk hĭ abih laih anŭn ge̱t klĭ so anŭn ăt răm hĭ mơ̆n. Samơ̆ kơđai glaĭ, arăng či tro pioh tơpai phrâo amăng ge̱t klĭ phrâo, tui anŭn tơpai hăng ge̱t klĭ phrâo anŭn či dŏ hiam klă soh sel yơh.”

Yêsu Pơhơdip Glaĭ Dra Anet Laih Anŭn Pơsuaih Pô Đah Kơmơi Ruaih Jih Ao Ñu

(Markôs 5:21-43; Luk 8:40-56)

18Tơdang Yêsu hlak dŏ pơhiăp hơdôm tơlơi anŭn, anai nê hơmâo ha čô khua sang pơjơnum rai tŏ tơŭt ƀơi anăp Ñu laih anŭn kwưh rơkâo tui anai, “Ơ Khua ăh, ană dra anet kâo phrâo tơĭ pran, samơ̆ rơkâo kơ Ih rai ăh bĕ tơngan Ih ƀơi ñu tui anŭn ñu či hơdip glaĭ dơ̆ng.” 19Giŏng anŭn, Yêsu tơgŭ nao tui khua anŭn laih anŭn ƀing ding kơna Ñu ăt đuaĭ tui mơ̆n.
20Tơdang ƀing gơñu hlak nao, anai nê ăt hơmâo mơ̆n ha čô đah kơmơi ruă tuh drah truh kơ pluh-dua thŭn anai laih nao jĕ gah rŏng Yêsu. Giŏng anŭn, ñu ruaih ƀơi jih ao Yêsu, 21yuakơ ñu pơmĭn amăng pran jua ñu pô tui anai, “Tơdah kâo kơnơ̆ng ruaih ƀơi jih ao Ñu đôč, kâo či dưi suaih yơh.”
22Yêsu nger glaĭ, ƀuh gơ̆ laih anŭn laĭ tui anai, “Ơ neh ăh! Dŏ kơjăp pran jua bĕ. Tơlơi đaŏ ih hơmâo pơsuaih hĭ laih ih.” Đah kơmơi anŭn suaih hĭ ƀơi mông anŭn mơtam.
23Tơdang Yêsu truh pơ sang khua anŭn, Ñu ƀuh ƀing ayŭ kơ tơlơi djai hlak ayŭp đing klơt laih anŭn mơnuih lu čŏk hia ngañ bañ biă mă, 24Ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Đuaĭ bĕ ƀing gih, ană dra anet anŭn ƀu djơ̆ djai ôh samơ̆ ñu kơnơ̆ng pĭt đôč.” Tui anŭn, ƀing gơñu klao djik kơ Yêsu yơh. 25Samơ̆ giŏng kơ puh tơbiă hĭ abih ƀing anŭn gah rơngiao kơ sang laih, Yêsu mŭt hăng mă ƀơi tơngan dra anet anŭn laih anŭn gơ̆ tơgŭ mơtam yơh. 26Tơlơi hing ang kơ tơlơi truh anŭn lar hyu djŏp djang anih jum dar amăng tring anŭn.

Yêsu Pơsuaih Dua Čô Mơnuih Bum Mơta

27Tơdang Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn, hơmâo dua čô đah rơkơi bum mơta gir kiaŏ tui Ñu iâu kraih tui anai, “Ơ Ană Tơčô Pơtao Dawid hơi, pap mơñai brơi kơ ƀing gơmơi đa!”
28Tơdang Yêsu mŭt laih amăng sang, dua čô bum mơta anŭn nao pơ Ñu laih anŭn Yêsu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih đaŏ Kâo dưi pơsuaih hĭ mơta bum gih mơ̆n hă?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Ƀing gơmơi đaŏ yơh, Ơ Khua ăh!”
29Giŏng anŭn, Yêsu ruaih ƀơi mơta gơñu hăng laĭ, “Brơi tơlơi anŭn truh bĕ tui hăng tơlơi ƀing gih đaŏ.” 30Tui anŭn, mơta gơñu thâo ƀuh rơđah mơtam. Samơ̆ Yêsu khă hĭ ƀing gơñu kơtang biă mă tui anai, “Ƀing gih anăm ră ruai tơlơi truh anai kơ ƀing hlơi pô ôh.”
31Samơ̆ ƀing gơñu tơbiă mơ̆ng sang anŭn pơhing hyu Yêsu djŏp djang anih jum dar amăng tring trang anŭn.

Yêsu Pơsuaih Sa Čô Mơnuih Kơmlô

32Tơdang ƀing bum anŭn tơbiă đuaĭ hĭ laih mơ̆ng anih anŭn, arăng ba rai pơ Yêsu sa čô đah rơkơi kơmlô yang sat ngă. 33Samơ̆ tơdang Yêsu puh pơđuaĭ hĭ laih yang sat, pô kơmlô anŭn dưi pơhiăp mơtam. Ƀing mơnuih lu dŏ kơtuă hli̱ng hla̱ng biă mă hăng laĭ, “Ƀing ta ƀu ƀuh djơ̆ ôh tơlơi truh hrup hăng anai amăng ƀing Israel.”
34Samơ̆ ƀing Pharisai laĭ, “Khua yang sat yơh pha brơi kơ mơnuih anai tơlơi dưi puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat.”

Yêsu Pap Drap Kơ Ƀing Ană Plei

35Giŏng anŭn, Yêsu đuaĭ hyu pơ djŏp djang tring trang plei pla laih anŭn pơtô ƀing Yehudah amăng sang pơjơnum gơñu, pơtô pơblang Tơlơi Pơthâo Hiam kơ ƀing gơñu tơlơi mơnuih mơnam dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai laih anŭn pơsuaih djŏp mơta tơlơi dju djuăm duăm ruă. 36Tơdang Ñu ƀuh ƀing mơnuih lu, Ñu pap drap biă mă kơ ƀing gơ̆ yuakơ ƀing gơ̆ rŭng răng ƀu hơmâo anih kơnang kar hăng triu ƀu hơmâo pô wai. 37Tui anŭn, Ñu laĭ hăng ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Bơyan pĕ hơpuă jing prŏng samơ̆ ƀing mă bruă pĕ hơpuă jing ƀiă biă mă. 38Tui anŭn, kwưh rơkâo bĕ Khua kơ bruă pĕ hơpuă anŭn kiăng kơ pơkiaŏ nao lu ƀing mă bruă amăng bơyan pĕ hơpuă Ñu.”