9

Dân sự ăn chay và xưng tội. – Người Lê-vi cầu nguyện

1 Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất. 2 Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình. 3 Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày; trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. 4 Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
5 Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng khen ngợi danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi. 6 Ôi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó; Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa. 7 Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người khỏi U-rơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham. 8 Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.
9 Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển Đỏ, 10 làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay. 11 Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn. 12 Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo. 13 Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-na-i, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chân thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành. 14 Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp. 15 Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng.
16 Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh, cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa, 17 chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng. 18 Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nầy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô và chọc cho Chúa giận nhiều, 19 thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi. 20 Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát. 21 Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên.
22 Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Óc, vua Ba-san. 23 Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy. 24 Vậy, con cháu chúng bèn vào và nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn. 25 Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất màu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, những giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.
26 Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay. 27 Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình.
28 Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần. 29 Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhứt, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo. 30 Chúa dung thứ chúng nhiều năm, và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ. 31 Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.
32 Vậy bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay. 33 Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chân thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác. 34 Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng. 35 Tại trong xứ của chúng, giữa điều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ. 36 Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; nầy chúng tôi làm tôi trong xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó. 37 Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đương bị hoạn nạn lớn. 38 Dầu các sự nầy, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó; các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho.

9

Ƀing Israel Pơhaih Tơlơi Soh Gơñu

1Ƀơi hrơi tal duapluh-pă̱ amăng blan anŭn mơ̆n, ƀing ană plei Israel pơƀut glaĭ hrŏm hơbĭt kŏm ƀơ̆ng huă laih anŭn čut hơô ao tâo laih anŭn pruai ƀruih lŏn ƀơi akŏ gơñu pô kiăng kơ pơrơđah kơ tơlơi ƀing gơñu rơngot hơning kơ tơlơi soh gơñu. 2Hlâo kơ anŭn, ƀing gơñu ăt hơmâo pơčơlah hĭ laih mơ̆n gơñu pô mơ̆ng abih bang ƀing mơnuih tuai. Ƀing gơñu dŏ dơ̆ng pơ anih anŭn laih anŭn čơdơ̆ng pơhaih hơdôm tơlơi soh gơñu wơ̆t hăng tơlơi soh ƀing ơi adon gơñu hơmâo ngă laih hlâo adih. 3Ƀing gơñu dŏ dơ̆ng pơ anih anŭn hơmư̆ tơdang arăng đŏk mơ̆ng Hơdrôm Hră Tơlơi Juăt Yahweh Ơi Adai ta kơplăh wăh klâo rơwang mông, laih anŭn ăt amăng klâo rơwang mông mơ̆n ƀing gơñu pơhaih tơlơi soh gơñu laih anŭn kơkuh pơpŭ kơ Yahweh Ơi Adai gơñu.
4Pơ anih anŭn ăt hơmâo sa adri̱ng kơyâo kơ ƀing Lêwi dŏ dơ̆ng ƀơi anih anŭn, anŭn jing Yêsua, Bani, Kadmiel, Sebanyah, Bunni, Sêrêbyah, Bani laih anŭn Kenani. Ƀing gơñu iâu laĭ kraih hăng Yahweh Ơi Adai gơñu.
5Ƀing Lêwi gah yŭ anai yơh iâu rai kiăng kơ kơkuh pơpŭ: Yêsua, Kadmiel, Bani, Hasabneiah, Sêrêbyah, Hôbiah, Sebanyah laih anŭn Pethahiah. Ƀing gơñu laĭ tui anai:
  “Tơgŭ bĕ laih anŭn bơni hơơč bĕ kơ Yahweh Ơi Adai gih;
   bơni hơơč bĕ kơ Ñu nanao hlŏng lar!
  Brơi bĕ kơ abih bang mơnuih bơni hơơč kơ anăn ang yang Ñu,
   Anăn Ñu jing prŏng hloh kơ tơlơi bơni hơơč ƀing ta ƀu dưi pơhiăp ƀôdah pơmĭn ôh.”

Tơlơi Iâu Laĭ Pơhaih Tơlơi Soh

  6Giŏng anŭn, ƀing ană plei Israel iâu laĭ tui anai:
  “Ih yơh, Ơ Yahweh hơi, kơnơ̆ng hơjăn Ih yơh jing Yahweh;
   Ih pơjing rai khul tal adai wơ̆t hăng khul pơtŭ pơ adai glông hloh adih.
  Ih pơjing rai lŏn tơnah ia rơsĭ laih anŭn abih bang mơnơ̆ng mơnuă amăng anŭn;
   Ih pha brơi tơlơi hơdip kơ abih bang.
  Abih bang khul pơtŭ hăng adai adih bon kơkuh pơpŭ kơ Ih.

  7“Ơ Yahweh Ơi Adai ăh, Ih yơh jing Pô ruah mă laih Abram
   laih anŭn dui ba gơ̆ tơbiă mơ̆ng plei Ur amăng čar Kaldi
   laih anŭn Ih pơplih hĭ anăn gơ̆ jing Abraham.
  8Ih ƀuh pran jua ñu dŏ tŏng ten hăng Ih
   laih anŭn Ih pơjing tơlơi pơgop hăng gơ̆.
  Ih ƀuăn rơ̆ng kiăng kơ pha brơi gơ̆ anih lŏn ƀing Kanaan,
   ƀing Hit laih anŭn ƀing Amôr,
   anih lŏn ƀing Periz, ƀing Yebus laih anŭn ƀing Girgas,
   kiăng kơ jing anih lŏn kơ ƀing kơnung djuai gơ̆ či hơdip.
  Ih hơmâo djă̱ pioh laih tơlơi Ih ƀuăn rơ̆ng, yuakơ Ih jing tơpă hơnơ̆ng yơh.

  9“Ih ƀuh laih ƀing ơi adon gơmơi gleh tơnap amăng čar Êjip,
   laih anŭn Ih hơmư̆ laih tơlơi ƀing gơ̆ iâu kwưh kơ tơlơi djru ƀơi ia rơsĭ Mriah.
  10Ih brơi rai khul gru kơnăl mơsêh mơyang pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao Pharaoh,
   pơkơdơ̆ng glaĭ hăng abih ƀing khua moa ñu laih anŭn hăng abih ƀing ană plei amăng anih lŏn anŭn,
   yuakơ Ih thâo laih hiư̆m ƀing gơñu hơmâo kơtư̆ juă laih kơ ƀing ană plei Ih.
  Ih dưi hĭ laih, laih anŭn Anăn Ih ăt dŏ hing ang truh kơ ră anai.
  11Ih pơkăh pơpha laih ia rơsĭ jing jơlan rơbat kơ ƀing ană plei Ih Israel,
   laih anŭn dui ba ƀing gơ̆ găn ƀơi lŏn thu.
  Samơ̆ Ih pơƀlŭng pơdjai hĭ ƀing kiăng kiaŏ pơrai hĭ ƀing gơ̆ amăng anih ia dơlăm,
   hrup hăng boh pơtâo kơdram trŭn amăng ia rơsĭ păh pung kơtang.
  12Tơdang hrơi Ih dui ba laih ƀing gơ̆ hăng sa gơ̆ng kơthul
   laih anŭn tơdang mlam Ih dui ba ƀing gơ̆ hăng sa gơ̆ng apui
   kiăng brơi kơ ƀing gơ̆ tơlơi bơngač ƀơi jơlan ƀing gơ̆ rơbat.

  13“Ƀơi čư̆ Sinai yơh Ih trŭn rai mơ̆ng adai adih laih anŭn pơhiăp hăng ƀing ană plei Ih.
  Ih pha brơi laih kơ ƀing gơ̆ khul tơlơi phiăn tơpă hơnơ̆ng laih anŭn khul tơlơi juăt djơ̆
   wơ̆t hăng khul tơlơi pơtă pơtăn laih anŭn tơlơi pơđar hiam klă.
  14Ih pơtô brơi laih kơ ƀing gơ̆ djă̱ pioh hrơi Saƀat rơgoh hiam
   laih anŭn Ih brơi kơ ƀing gơ̆ hơdôm tơlơi pơđar, tơlơi pơtă pơtăn laih anŭn tơlơi juăt Ih
   mơ̆ng ding kơna Ih Môseh yơh.
  15Tơdang ƀing gơ̆ ư̆ rơpa, Ih pha brơi kơ ƀing gơ̆ gơnam ƀơ̆ng mơ̆ng adai adih,
   laih anŭn tơdang ƀing gơ̆ mơhao ia, Ih brơi kơ ƀing gơ̆ ia mơñum mơ̆ng boh pơtâo prŏng.
  Ih pơtă laih kơ ƀing gơ̆ brơi mŭt nao tŭ mă anih lŏn
   jing anih lŏn Ih hơmâo ƀuăn brơi laih kiăng pha brơi kơ ƀing gơ̆.

  16“Samơ̆ ƀing ơi adon gơmơi anŭn jing hĭ pơgao ang khăng akŏ
   laih anŭn ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng tui gưt ôh hơdôm tơlơi Ih pơđar.
  17Ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng gưt tui ôh
   laih anŭn wơr bĭt hĭ abih bang tơlơi mơsêh mơyang Ih hơmâo ngă laih kiăng djru kơ ƀing gơñu.
  Yuakơ ƀing gơñu pơgao ang khăng akŏ yơh ƀing gơñu ruah laih khua ba akŏ kơ gơñu pô
   kiăng kơ wơ̆t glaĭ ngă hlŭn amăng lŏn čar Êjip dơ̆ng.
  Samơ̆ Ih jing Ơi Adai thâo pap brơi,
   jing Pô thâo pap, glưh pran jua laih anŭn akaih hil.
  Tơlơi khăp pap Ih jing prŏng prin laih anŭn Ih ƀu lui raih hĭ ƀing gơ̆ ôh.
  18Ƀing arăng pơkra rai laih kơ ƀing gơ̆ sa boh rup trah ană rơmô
   laih anŭn arăng laĭ, ‘Rup trah anai yơh jing yang gih,
   jing pô ba tơbiă laih ƀing gih mơ̆ng lŏn čar Êjip!’
  Ơ Yahweh hơi, ƀing gơñu ƀrưh mơhiăh hĭ kơ Ih biă mă.

  19“Samơ̆ yuakơ tơlơi glưh pran jua Ih prŏng prin yơh,
   Ih ƀu lui raih hĭ ôh ƀing gơñu amăng tơdron ha̱r.
  Tui anŭn, Ih ƀu mă pơđuaĭ hĭ ôh gơ̆ng kơthul kiăng dui ba ƀing gơñu tơdang hrơi
   kŏn mă pơđuaĭ hĭ lơi gơ̆ng apui kiăng pơčrang brơi jơlan rơbat tơdang mlam.
  20Ih pha brơi Yang Bơngăt Hiam Ih kiăng kơ pơtă brơi kơ ƀing gơ̆ hơdôm tơlơi khŏm ngă tui;
   Ih čem rong ƀing gơ̆ hăng tơpŭng mana laih anŭn pha brơi kơ ƀing gơ̆ ia kiăng kơ mơñum nanao.
  21Abih pă̱pluh thŭn amăng tơdron ha̱r
   Ih pha brơi abih bang tơlơi ƀing gơ̆ kơƀah kiăng.
  Ao buh ƀing gơ̆ ƀu so phŏ hĭ ôh,
   laih anŭn tơkai ƀing gơ̆ kŏn brăh đĭ ruă lơi.

  22“Ih jao brơi laih kơ ƀing gơ̆ dưi blah juă hĭ lu lŏn čar laih anŭn ƀing kơnung djuai mơnuih,
   jing lŏn čar jĕ guai lŏn kơ ƀing gơ̆ pô.
  Ƀing gơñu blah dưi hĭ laih kơ pơtao Sihôn jing pơtao lŏn čar Hesbôn
   laih anŭn kơ pơtao Ôg jing pơtao lŏn čar Basan.
  23Ih pơlar rai laih ƀing ană tơčô ƀing gơ̆ lu kar hăng khul pơtŭ amăng adai adih,
   laih anŭn Ih brơi laih kơ ƀing ană tơčô anŭn dưi mŭt dŏ hơdip amăng anih lŏn
   jing anih Ih hơmâo pơtă laih kơ ƀing ơi adon gơñu kiăng kơ mŭt mă tŭ.
  24Ƀing gơñu mŭt nao blah mă tŭ laih anih lŏn Kanaan;
   Ih yơh hơmâo dưi hĭ laih kơ ƀing hơdip amăng anih lŏn Kanaan anŭn.
  Ih pha brơi laih kơ ƀing ană plei Ih tơlơi dưi tui hăng tơlơi ƀing gơ̆ kiăng kơ ngă
   kơ ƀing pơtao laih anŭn kơ ƀing ană plei amăng anih lŏn Kanaan anŭn yơh.
  25Ƀing ană plei Ih blah mă hĭ khul plei kơđông,
   anih lŏn kơmơ̆k, khul sang bă hăng mŭk dram,
   khul ia dơmŭn arăng klơi laih,
   khul đang kơyâo ôliwơ, đang boh kơƀâo laih anŭn lu kơyâo boh čroh pơkŏn.
  Ƀing gơñu ƀơ̆ng huă trơi hrăp yơh kơ hơget gơnam ƀơ̆ng ƀing gơñu kiăng tơl ƀing gơñu rơmŏng biă mă.
  Ƀing gơñu mơak mă tŭ abih bang gơnam mơyŭn hiam Ih pha brơi laih kơ ƀing gơñu yơh.

  26“Samơ̆ ƀing ană plei Ih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih laih anŭn ƀu gưt tui Ih ôh.
  Ƀing gơñu hơngah đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng Tơlơi Juăt Ih
   laih anŭn pơdjai hĭ laih ƀing pô pơala Ih,
   jing ƀing rai pơkơđiăng brơi kơ ƀing gơñu kiăng kơ wơ̆t glaĭ pơ Ih.
  Ƀing gơñu ƀrưh mơhiăh hĭ kơ Ih biă mă.
  27Tui anŭn yơh, Ih brơi kơ ƀing rŏh ayăt gơñu blah juă hĭ ƀing gơñu laih anŭn kơtư̆ juă ƀing gơñu.
  Amăng tơlơi tơnap tap gơñu anŭn yơh, ƀing gơñu iâu kwưh Ih kơ tơlơi djru,
   laih anŭn mơ̆ng adai adih yơh Ih laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu.
  Amăng tơlơi glưh pran jua prŏng prin Ih yơh, Ih brơi rai kơ ƀing gơñu ƀing khua ba akŏ
   kiăng pơklaih hĭ ƀing gơñu mơ̆ng ƀing rŏh ayăt gơñu.

  28“Samơ̆ tơdang ƀing gơñu rơnŭk rơnua laih, ƀing gơñu čơdơ̆ng ngă soh dơ̆ng ƀơi anăp Ih,
   laih anŭn dơ̆ng Ih brơi ƀing rŏh ayăt gơñu blah juă git gai hĭ ƀing gơñu.
  Samơ̆ tơdang ƀing gơñu pơhaih tơlơi soh laih anŭn iâu kwưh Ih kiăng pơklaih hĭ ƀing gơñu dơ̆ng,
   Ih hơmư̆ gơñu mơ̆ng adai adih
   laih anŭn Ih pơklaih hĭ ƀing gơñu nanao yuakơ Ih hơmâo tơlơi glưh pran jua prŏng prin.

  29“Ih hơmâo pơkơđiăng laih ƀing gơñu kiăng kơ wơ̆t glaĭ gưt tui hơdôm tơlơi Ih pơtô laĭ,
   samơ̆ ƀing gơñu ngă pơgao ang hăng hơngah ƀu tui gưt ôh hơdôm tơlơi Ih pơđar laih anŭn ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơlơi phiăn Ih,
   wơ̆t tơdah ƀing gơñu thâo hluh: Ngă tui Tơlơi Juăt Ih jing jơlan kơ tơlơi hơdip yơh.
  Samơ̆ ƀing gơñu khăng akŏ laih anŭn kơpĭl hơngah hĭ ƀu kiăng gưt tui Ih ôh.
  30Amăng lu thŭn laih Ih ư̆ añ hăng ƀing gơñu nanao.
  Ih brơi Yang Bơngăt Hiam Ih pơkơđiăng ƀing gơñu mơ̆ng ƀing pô pơala,
   samơ̆ ƀing ană plei Ih ƀu kiăng pơđi̱ng tơngia hơmư̆ ôh.
  Tui anŭn, Ih jao hĭ ƀing gơñu kơ ƀing kơnung djuai lŏn čar pơkŏn git gai gơñu.
  31Samơ̆ wơ̆t tơdah tui anŭn, yuakơ tơlơi glưh pran jua Ih jing prŏng prin yơh,
   Ih ƀu lui raih hĭ ƀing gơñu ƀôdah pơrai hĭ ƀing gơñu ôh.
  Ih yơh jing Ơi Adai thâo pap laih anŭn thâo khăp pap.

  32“Ơ Ơi Adai, Ơi Adai gơmơi hơi, Ih jing Pô prŏng prin biă mă!
  Ih jing Pô ƀing gơmơi huĭ pơpŭ kri̱p yi̱p laih anŭn dưi mơyang biă mă!
  Ih tŏng ten djă̱ pioh tơlơi ƀuăn rơ̆ng pơgop pơlir Ih.
  Čơdơ̆ng mơ̆ng rơnŭk tơdang ƀing pơtao lŏn čar Assiria kơtư̆ juă ƀing gơmơi,
   hlŏng truh kơ tă anai, ƀing gơmơi tŭ tơlơi gleh tơnap biă mă!
  Ƀing pơtao gơmơi, ƀing khua djă̱ akŏ gơmơi, ƀing khua ngă yang laih anŭn ƀing pô pơala gơmơi,
   ƀing ơi adon gơmơi laih anŭn abih bang ƀing ană plei gơmơi hơmâo tŭ mă laih tơlơi gleh tơnap.
  Rơkâo kơ Ih anăm wơr hĭ ôh kơ tơlơi ƀing gơmơi hơmâo tŭ tơlơi gleh tơnap laih!
  33Ih hơmâo ngă laih tơlơi djơ̆ găl kiăng pơkơhma̱l hĭ ƀing gơmơi;
   Ih yơh jing Pô tŏng ten wơ̆t tơdah ƀing gơmơi hơmâo ngă sat ƀai laih.
  34Ƀing ơi adon gơmơi, ƀing pơtao gơmơi, ƀing khua djă̱ akŏ gơmơi laih anŭn ƀing khua ngă yang gơmơi
   ƀu ngă tui Tơlơi Juăt Ih ôh.
  Ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng pơđi̱ng tơngia hơmư̆ tui ôh hơdôm tơlơi pơđar laih anŭn tơlơi pơkơđiăng Ih.
  35Tơdang ƀing ană plei Ih hơdip amăng anih lŏn gơñu pô
   Ih brơi tơlơi mơyŭn hiam kơ ƀing gơñu,
   Ih brơi ƀing pơtao wai lăng ƀing gơñu
   laih anŭn pha brơi anih lŏn kơmơ̆k hiam kơ ƀing gơñu
  samơ̆ ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng đuaĭ ataih hĭ ôh mơ̆ng tơlơi sat ƀai
   laih anŭn kŏn kiăng kơkuh pơpŭ kơ Ih lơi.

  36“Samơ̆ ră anai, ƀing gơmơi jing hĭ hlŭn mơnă amăng anih lŏn Ih pha brơi laih hlâo adih kơ ƀing ơi adon gơmơi.
  Anih lŏn anŭn jing anih lŏn kơmơ̆k hiam pha brơi kơ ƀing gơñu gơnam ƀơ̆ng hiam yơh
   samơ̆ ƀing gơmơi jing hĭ hlŭn mơnă amăng anih lŏn anŭn!
  37Hơdôm gơnam tăm anih lŏn anai pơtơbiă rai le̱ng kơ nao pơ ƀing pơtao,
   jing ƀing Ih hơmâo jao laih kiăng kơ git gai ƀing gơmơi yuakơ ƀing gơmơi ngă soh laih.
  Ƀing gơñu ngă kơ ƀing gơmơi wơ̆t hăng hlô mơnơ̆ng gơmơi tui hăng tơlơi gơñu kiăng yơh.
  Tui anŭn, ƀing gơmơi rŭng răng biă mă yơh!”

Ƀing Ană Plei Israel Čih Tơlơi Pơgop

38“Yuakơ abih bang hơdôm tơlơi anŭn hơmâo truh laih, tui anŭn ƀing ta, jing ƀing ană plei Israel, čih sa tơlơi pơgop ƀơi hră, laih anŭn ƀing khua djă̱ akŏ, ƀing Lêwi laih anŭn ƀing khua ngă yang ta yơh kơđŏm gru kơnăl kơđŏm gơñu pô ƀơi hră anŭn.”