32

Bài ca của Môi-se

1 Hỡi trời, hãy lắng tai, tôi sẽ nói;
 Và đất, hãy nghe những lời của miệng tôi.
2 Đạo của tôi rải ra như mưa;
 Lời tôi sa xuống khác nào sương móc,
 Tợ mưa tro trên cây cỏ,
 Tỉ như mưa tầm tã trên đồng xanh.
3 Vì tôi sẽ tung hô danh Giê-hô-va.
 Hãy tôn sự oai nghiêm cho Đức Chúa Trời chúng tôi!
4 Công việc của Hòn Đá là trọn vẹn;
 Vì các đường lối Ngài là công bình.
 Ấy là Đức Chúa Trời thành tín và vô tội;
 Ngài là công bình và chánh trực.
5 Chúng đáng mang xấu hổ, vì đã phản Ngài,
 Chẳng phải con trai của Ngài nữa: quả là một dòng dõi gian tà và điên đảo!
6 Hỡi dân khờ dại không trí,
 Các ngươi báo đáp Đức Giê-hô-va như vậy sao?
 Ngài há chẳng phải là Cha ngươi, Đấng đã chuộc ngươi chăng?
 Há chẳng phải Ngài đã dựng nên ngươi, và lập ngươi sao?
7 Hãy nhớ lại những ngày xưa;
 Suy xét những năm của các đời trước;
 Hãy hạch hỏi cha ngươi, người sẽ dạy cho,
 Cùng các trưởng lão, họ sẽ nói cho.
8 Khi Đấng Chí Cao phân phát sản nghiệp cho muôn dân,
 Phân rẽ những con cái A-đam,
 Thì Ngài định bờ cõi của các dân,
 Cứ theo số dân Y-sơ-ra-ên.
9 Vì phần của Đức Giê-hô-va là dân Ngài, Gia-cốp là cơ nghiệp Ngài.
10 Ngài tìm được người trong một nơi rừng rú,
 Tại nơi vắng vẻ, giữa những tiếng hét la của đồng vắng.
 Ngài bao phủ người, săn sóc người,
 Gìn giữ người như con ngươi của mắt mình.
11 Như phụng hoàng phấp phới giỡn ổ mình,
 Bay chung quanh con nhỏ mình,
 Sè cánh ra xớt nó,
 Và cõng nó trên chéo cánh mình thể nào,
12 Thì một mình Đức Giê-hô-va đã dẫn dắt người thể ấy,
 Không có thần nào khác ở cùng người…
13 Ngài đã khiến người cỡi trên các nơi cao của xứ,
 Y-sơ-ra-ên đã ăn hoa quả của đồng ruộng,
 Ngài khiến người hút mật của hòn đá,
 Dầu của hòn đá cứng hơn hết,
14 Và nút mỡ sữa bò và sữa chiên.
 Ngài ban cho người mỡ chiên con,
 Chiên đực sanh tại Ba-san, và dê đực,
 Cùng bột lọc nhứt hạng của lúa mạch;
 Người có uống huyết của nho như rượu mạnh.
15 Giê-su-run đã mập mạp và cất đá,
 --- Người trở nên mập, lớn và béo tròn. ---
 Người đã lìa bỏ Đức Chúa Trời, là Đấng dựng nên người,
 Và khinh dể Hòn Đá của sự chửng cứu người.
16 Chúng nó trêu ghẹo Ngài phân bì, bởi sự cúng thờ những thần khác,
 Chọc giận Ngài vì các sự gớm ghiếc;
17 Tế lễ những ma quỉ chẳng phải là Đức Chúa Trời,
 Quì lạy các thần mà mình chưa hề biết,
 Tức là các thần mới vừa đến ít lâu,
 Mà tổ phụ các ngươi không kính sợ.
18 Ngươi không kể đến Hòn Đá sanh mình,
 Và quên Đức Chúa Trời đã tạo mình.
19 Đức Giê-hô-va có thấy điều đó, nên trong cơn thạnh nộ.
 Ngài đã từ bỏ các con trai và con gái mình.
20 Ngài có phán: Ta sẽ giấu mặt ta,
 Để xem sự cuối cùng của chúng nó ra sao;
 Vì là một dòng dõi gian tà,
 Là những con cái không có lòng trung tín.
21 Chúng nó giục ta phân bì, vì cúng thờ thần chẳng phải là Đức Chúa Trời,
 Lấy sự hư không mà chọc giận ta;
 Ta cũng vậy, lấy một dân tộc hèn mà trêu sự phân bì của chúng nó,
 Lấy một nước ngu dại mà chọc giận chúng nó.
22 Vì có lửa nổi phừng trong cơn giận ta,
 Cháy cho đến đáy sâu âm phủ,
 Thiêu nuốt đất và thổ sản,
 Cùng cháy đốt nền các núi.
23 Ta sẽ chất những tai vạ trên mình chúng nó,
 Bắn chúng nó hết các tên ta.
24 Chúng nó sẽ bị đói hao mòn, bị rét tiêu đi,
 Và một thứ dịch hạch độc dữ ăn nuốt.
 Ta sẽ khiến răng thú rừng,
 Và nọc độc của loài bò dưới bụi đến hại chúng nó.
25 Ngoài thì gươm dao,
 Trong thì kinh khủng
 Sẽ làm cho trai trẻ, gái đồng trinh,
 Và con đương bú, luôn với người già bạc
 Đều bị diệt vong.
26 Ta nói rằng: Ta sẽ lấy hơi thở ta quét sạch chúng nó đi,
 Diệt kỷ niệm chúng nó khỏi loài người.
27 Song sợ thù nghịch nhiếc nhóc,
 Kẻ cừu địch chúng nó lầm hiểu,
 La rằng: Tay chúng tôi đã tỏ sức cao cường,
 Chớ chẳng phải Đức Giê-hô-va có làm mọi điều ấy đâu!
28 Vì là một dân mất trí,
 Trong lòng không có thông minh!
29 Chớ chi họ khôn ngoan và hiểu được,
 Ước gì nghĩ đến sự cuối cùng vẫn đợi họ!
30 Nhược bằng Hòn Đá không có bán chúng nó,
 Và Giê-hô-va không giao nộp chúng nó,
 Thì làm sao một người rượt nổi ngàn người,
 Và hai người đuổi mười ngàn người trốn đi?
31 Vì hòn đá chúng nó chẳng phải như Hòn Đá chúng ta,
 Thù nghịch chúng ta cũng xét đoán như vậy.
32 Cây nho chúng nó vốn là chồi của Sô-đôm,
 Và do đất của Gô-mô-rơ.
 Trái nho chúng nó vốn là độc,
 Và chùm nho vốn là đắng;
33 Rượu nho chúng nó là nọc độc con rắn,
 Một thứ nọc độc rất dữ của rắn hổ.
34 Những việc như thế làm sao ta quên được?
 Ta đã niêm phong nó vào trong kho ta.
35 Khi chân chúng nó xiêu tó,
 Sự báo thù sẽ thuộc về ta, phần đối trả sẽ qui về ta.
 Vì ngày bại hoại của chúng nó hầu gần,
 Và những tai họa buộc phải xảy ra cho chúng nó đến mau.
36 Phải, khi Đức Giê-hô-va thấy sức lực của dân sự mình hao mòn,
 Và không còn lại tôi mọi hay là tự chủ cho chúng nó,
 Thì Ngài sẽ đoán xét công bình cho chúng nó,
 Và thương xót tôi tớ Ngài.
37 Ngài sẽ phán: Các thần chúng nó,
 Những hòn đá chúng nó nhờ cậy,
38 Các thần hưởng mỡ của hi sinh,
 Và uống rượu của lễ quán chúng nó, đều ở đâu?
 Các thần ấy hãy đứng dậy, giúp đỡ
 Và che phủ cho các người!
39 Bây giờ, hãy xem ta là Đức Chúa Trời,
 Ngoài ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác.
 Ta khiến cho chết và cho sống lại,
 Làm cho bị thương và chữa cho lành,
 Chẳng có ai giải cứu khỏi tay ta được.
40 Vì ta giơ tay chỉ trời
 Mà thề rằng: Ta quả thật hằng sống đời đời,
41 Khi ta mài lưỡi sáng của gươm ta,
 Và tay ta cầm sự đoán xét,
 Thì ta sẽ báo thù kẻ cừu địch ta,
 Cùng đối trả những kẻ nào ghét ta.
42 Ta sẽ làm cho các mũi tên ta say huyết;
 Lưỡi gươm ta ăn thịt,
 Tức là huyết của kẻ bị giết và của phu tù,
 Thịt của đầu các tướng thù nghịch.
43 Hỡi các nước! hãy vui mừng với dân Ngài,
 Vì Đức Chúa Trời sẽ báo thù huyết của tôi tớ Ngài,
 Trả thù kẻ cừu địch Ngài,
 Và tha tội cho xứ và cho dân của Ngài.
44 Vậy, Môi-se cùng Giô-suê, con trai của Nun, đến đọc hết các lời bài ca nầy cho dân sự nghe.
45 Khi Môi-se đã đọc xong các lời nầy tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, 46 thì người nói cùng chúng rằng: Hãy để lòng chăm chỉ về hết thảy lời ta đã nài khuyên các ngươi ngày nay, mà truyền cho con cháu mình, để chúng nó cẩn thận làm theo các lời của luật pháp nầy. 47 Vì chẳng phải một lời nói vô giá cho các ngươi đâu, nhưng nó là sự sống của các ngươi; nhờ lời nói nầy, các ngươi sẽ ở lâu ngày trên đất mà các ngươi sẽ đi nhận lấy, khi qua sông Giô-đanh.
48 Trong ngày đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 49 Hãy đi lên núi A-ba-rim, trên đỉnh Nê-bô, ở trong xứ Mô-áp, đối ngang Giê-ri-cô; rồi nhìn xứ Ca-na-an mà ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp. 50 Vả, ngươi sẽ chết trên núi mà ngươi lên đó, và sẽ được tiếp về cùng dân ngươi, y như A-rôn, anh ngươi, đã chết trên núi Hô-rơ, và đã được tiếp về cùng dân của người, 51 bởi vì tại giữa dân Y-sơ-ra-ên, các ngươi đã phạm tội cùng ta, nơi nước Mê-ri-ba tại Ca-đe, trong đồng vắng Xin, và vì các ngươi không tôn ta thánh giữa dân Y-sơ-ra-ên. 52 Quả thật, ngươi sẽ thấy xứ ở trước mặt mình, nhưng không được vào trong xứ ấy mà ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên.

32

1Ơ rơngit adai, hơmư̆ bĕ laih anŭn kâo či pơhiăp;
   Ơ lŏn tơnah, hơmư̆ bĕ khul boh hiăp mơ̆ng amăng bah kâo.
  2Ơ ƀing Israel, brơi bĕ tơlơi kâo pơtô lê̆ ƀơi ƀing gih hrup hăng ia hơjan
   laih anŭn tơlơi kâo pơhiăp trŭn hrup hăng ia ngo̱m,
  hrup hăng hơjan bơyan buh ƀơi rơ̆k phrâo,
   hrup hăng ia hơjan bơyan jŭ pla ƀơi khul kơyâo pơtâo mơda.

  3Kâo či pơhaih anăn Yahweh yơh.
   Ơ ƀing Israel, bơni hơơč bĕ kơ tơlơi prŏng prin Ơi Adai ta!
  4Ñu jing Boh Pơtâo pơgang ta, khul bruă mơnuă Ñu jing klă tu̱m,
   laih anŭn abih bang jơlan Ñu jing tơpă soh sel.
  Ñu jing Ơi Adai tŏng ten jing Pô ƀu soh ôh,
   Ñu yơh jing Pô djơ̆ hơnơ̆ng laih anŭn tơpă.

  5Ƀing gih hơmâo ngă sat ƀai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ñu;
   yuakơ tơlơi soh gih, ƀing gih ƀu djơ̆ jing ană bă Ñu dơ̆ng tah,
   samơ̆ ƀing gih jing hĭ sa rơnŭk ƀing wĕ wŏ laih anŭn ƀrưh ƀai yơh.
  6Anai yơh jing jơlan ƀing gih kla glaĭ kơ Yahweh hă,
   Ơ ƀing mlŭk laih anŭn ƀu kiăng thâo hluh ăh,
  Ñu ƀu djơ̆ jing Ama gih jing Pô Hrih Pơjing gih ôh hă?
   Ñu ƀu djơ̆ jing Pô pơjing hĭ ƀing gih jing sa boh lŏn čar ôh hă?

  7Hơdơr bĕ kơ khul hrơi hlâo adih;
   pơmĭn bĕ kơ rơnŭk ƀing hlâo rơgao laih.
  Tơña bĕ ơi adon gih laih anŭn ñu či pơrơđah kơ ƀing gih,
   ƀing kŏng tha gih, laih anŭn ƀing gơñu či ră ruai kơ ƀing gih yơh.
  8Tơdang Ơi Adai Pô Glông Hloh brơi kơ ƀing kơnung djuai anai anih lŏn kŏng ngăn gơñu,
   tơdang Ñu pơkăh pơpha abih bang mơnuih mơnam,
  Ñu pơdơ̆ng đĭ laih khul guai kơ ƀing mơnuih mơnam anai
   laih anŭn ƀing Israel tui hăng mrô gơñu yơh.
  9Samơ̆ Yahweh ruah mă ƀing ană plei Ñu,
   ƀing kơnung djuai Yakôb jing ƀing Israel yơh jing črăn kŏng ngăn Ñu.

  10Amăng sa anih tơdron ha̱r Ñu hơduah ƀing gơ̆,
   jing amăng anih thu krô laih anŭn tơdron tač angĭn bluh hông hang.
  Ñu wai lăng brơi ƀing gơ̆ laih anŭn răk rong ba ƀing gơ̆;
   Ñu pơgang ƀing gơ̆ hrup hăng pơgang alăk mơta Ñu pô.
  11Hrup hăng sa drơi čim si̱ng răk wai hruh ñu
   laih anŭn pŏr juang gah ngŏ kơ khul ană ñu,
  Yahweh blang čăng Ñu kiăng čơkă mă ƀing ană plei Ñu
   hăng pơdiăng ba ƀing gơ̆ ƀơi khul čăng Ñu.
  12Kơnơ̆ng hơjăn Yahweh yơh dui ba ƀing gơ̆;
   ƀu hơmâo yang rơba̱ng ôh dŏ hrŏm hăng ƀing gơ̆.

  13Ñu ngă brơi ƀing gơ̆ đĭ mă tŭ anih glông anih lŏn anai
   laih anŭn čem rong ƀing gơ̆ hăng boh čroh đang hơma.
  Ñu čem ba gơ̆ hăng ia hơni mơ̆ng hruh hơni amăng khul boh pơtâo,
   laih anŭn hăng ia rơmuă ôliwơ mơ̆ng khul kơyâo čăt ƀơi lŏn pơtâo.
  14Ñu ăt čem ƀing gơ̆ hăng ia tơsâo laih anŭn ia tơsâo mơ̆ng rơmô hăng triu bơbe gơñu
   laih anŭn hăng añăm rơmuă mơ̆ng khul ană triu laih anŭn mơ̆ng khul triu tơno,
  hăng khul rơmô laih anŭn bơbe hiam hloh mơ̆ng lŏn čar Basan
   hăng khul braih hiam hloh mơ̆ng pơdai kơtor.
   Ñu brơi kơ ƀing gơ̆ mơñum tơpai mơ̆ng ia boh kơƀâo hiam hloh.
  15Yesurun jing ƀing Israel prŏng rơmŏng tui laih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng;
   bă hăng gơnam ƀơ̆ng, ƀing gơñu jing hĭ rơmŏng tui laih anŭn wĭl duit.
  Ƀing gơñu đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng Ơi Adai, Pô pơjing rai ƀing gơñu
   laih anŭn hơngah lui hĭ Pô Boh Pơtâo jing Pô Pơklaih gơñu.
  16Ƀing gơñu ngă kơ Ơi Adai ga̱r hăng ƀing yang rơba̱ng gơñu
   laih anŭn ngă kơ Ñu hil hăng khul rup trah hơƀak drak gơñu.
  17Ƀing gơñu ngă yang kơ ƀing yang sat, jing ƀing ƀu djơ̆ Ơi Adai ôh,
   jing ƀing yang ƀing gơñu ƀu thâo krăn ôh hlâo kơ anŭn,
   jing ƀing yang ƀing gơñu phrâo kơkuh pơpŭ đôč,
   jing ƀing yang ƀing ơi adon ta ƀu kơkuh pơpŭ ôh hlâo adih.
  18Ơ ƀing Israel, ƀing gih đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng Pô Boh Pơtâo anai, jing Ama kơ ƀing gih;
   ƀing gih wơr bĭt hĭ Ơi Adai jing Pô hơmâo rai ƀing gih.

  19Yahweh ƀuh tơlơi anai laih anŭn hơngah hĭ ƀing Israel
   yuakơ ƀing ană đah rơkơi đah kơmơi Ñu ngă kơ Ñu hil.
  20Yahweh laĭ, “Kâo či pơdŏp hĭ ƀô̆ mơta Kâo ƀu djru ƀing gơñu ôh,
   samơ̆ krăp lăng hiư̆m hơnăl tuč gơñu jing lĕ;
  yuakơ ƀing gơñu jing sa kơnung djuai soh sat,
   jing ƀing ană bă ƀu tŏng ten ôh.
  21Ƀing gơñu ngă brơi Kâo ga̱r hăng yang rơba̱ng gơñu jing pô ƀu djơ̆ yang ôh
   laih anŭn ngă kơ Kâo hil hăng khul rup trah đôč đač gơñu.
  Tui anŭn, Kâo či ngă brơi gơñu ga̱r hăng ƀing mơnuih jing ƀing ƀu djơ̆ sa lŏn čar ôh;
   laih anŭn Kâo či ngă kơ ƀing gơñu hil hăng sa lŏn čar mlŭk anŭn.
  22Yuakơ tơlơi hil Kâo hơmâo tuč đĭ laih,
   jing apui ƀơ̆ng laih truh pơ Seôl anih dơlăm ƀing djai.
  Apui anŭn či ƀơ̆ng hĭ lŏn tơnah laih anŭn dram gơnam amăng tơnah anŭn
   laih anŭn čuh hĭ atur khul čư̆.”

  23Yahweh laĭ dơ̆ng, “Kâo či pơƀut glaĭ khul tơlơi răm rai ƀơi ƀing gơñu
   laih anŭn pơnăh abih ƀrŏm hraŏ Kâo kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu.
  24Ƀing gơñu či djai hĭ yua mơ̆ng tơlơi ư̆ rơpa Kâo či mơit rai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu,
   laih anŭn yua mơ̆ng tơlơi ruă nuă sat kli̱n khe̱ng Kâo či mơit rai kiăng pơrai hĭ ƀing gơñu yơh;
  ƀing gơñu či răm rai hĭ yua mơ̆ng khul tơgơi griăng khul hlô mơnơ̆ng glai Kâo či mơit rai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu,
   laih anŭn yua mơ̆ng ia bi̱h khul ala tơpơ̆ng amăng ƀruih lŏn Kâo či mơit rai kiăng ngă sat kơ ƀing gơñu yơh.
  25Ƀơi jơlan yơh ƀing rŏh ayăt či pơrai hĭ ƀing gơñu hăng đao gưm kiăng ngă kơ ƀing gơñu ƀu hơmâo ană bă ôh;
   amăng khul sang gơñu tơlơi huĭ bra̱l yơh či git gai ƀing gơñu.
  Ƀing tơdăm laih anŭn dra či răm rai hĭ yơh,
   wơ̆t hăng ƀing ană nge laih anŭn ƀing tha hơmâo ƀŭk kô̱̆ mơ̆n.
  26Kâo dưi laĭ Kâo či pơčơlah hĭ ƀing gơñu
   laih anŭn lŏm lui hĭ ƀing gơñu mơ̆ng tơlơi djă̱ hơdơr abih bang mơnuih mơnam,
  27samơ̆ Kâo huĭ kơ ƀing rŏh ayăt djik djak kơ ƀing gơñu,
   huĭdah ƀing tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu thâo hluh soh laih anŭn laĭ,
  ‘Tơngan ta hơmâo dưi hĭ laih hăng ƀing Israel;
   ƀu djơ̆ Yahweh ôh ngă abih bang tơlơi anai.’ ”

  28Ƀing Israel jing ƀing kơnung djuai ƀu thâo hluh ôh,
   ƀu hơmâo tơlơi thâo pơmĭn rơđah ôh amăng ƀing gơñu.
  29Tơdah ƀing gơñu rơgơi laih anŭn thâo hluh kơ tơlơi anai
   ƀing gơñu dưi pơmĭn yơh hiư̆m tơlơi hơnăl tuč či jing!
  30Hiư̆m sa čô rŏh ayăt dưi kiaŏ mă sa-rơbâo čô ƀing Israel,
   ƀôdah dua čô dưi ngă brơi sa-rơbăn čô đuaĭ kơdŏp lĕ?
  Anŭn yuakơ Yahweh, jing Boh Pơtâo gơñu, hơmâo đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng ƀing gơñu laih,
   laih anŭn Ñu hơmâo lui raih hĭ ƀing gơñu laih.
  31Yuakơ boh pơtâo ƀing rŏh ayăt anŭn ƀu kơtang hrup hăng Yahweh Boh Pơtâo ta ôh,
   wơ̆t tơdah ƀing rŏh ayăt ta ăt thâo krăn kar hăng anŭn mơ̆n.
  32Ƀing rŏh ayăt anŭn hrup hăng phŭn hrĕ boh kơƀâo tơbiă rai mơ̆ng phŭn hrĕ plei pơnăng Sedôm
   laih anŭn mơ̆ng khul hơma plei pơnăng Gomôrrah yơh.
  Khul tul boh kơƀâo gơñu bă hăng tơlơi ruă phĭ̱,
   laih anŭn khul tul boh kơƀâo gơñu anŭn bă hăng jrao djai.
  33Tơpai boh kơƀâo gơñu hrup hăng ia bi̱h ala,
   jing bi̱h djuai ala tơpơ̆ng sat biă mă.
  34Yahweh tơña tui anai, “Kâo ƀu hơmâo djă̱ pioh tơlơi Kâo či ngă anai amăng sang gơnam Kâo ôh hă?
   Kâo ƀu hơmâo kơđŏm khuă hĭ tơlơi anŭn amăng khul atông Kâo ôh hă?
  35Anŭn jing tơlơi Kâo či rŭ nua yơh; Kâo či kla glaĭ tơlơi anŭn ƀơi ƀing rŏh ayăt Israel yơh.
   Ƀơi mông Kâo pơkơčah laih, tơkai gơñu či tơbơr rơbuh yơh,
  anŭn jing hrơi răm rai gơñu rai jĕ laih
   laih anŭn mông bưng sat gơñu blĭp rai ƀơi ƀing gơñu.”

  36Samơ̆ Yahweh či glưh pran jua pap kơ ƀing ding kơna Ñu
   laih anŭn či phat kơđi brơi kơ ană plei Ñu yơh.
  Tơdang Ñu ƀuh tơlơi kơtang ƀing gơ̆ abih laih yuakơ tơlơi tơnap ƀing gơ̆
   laih anŭn kơnơ̆ng hơmâo ƀiă mơnuih dŏ glaĭ wơ̆t dah mơnuih hlŭn ƀôdah mơnuih rơngai.
  37Yahweh či tơña ƀing Israel tui anai, “Ră anai pơpă ƀing yang gih,
   jing boh pơtâo ƀing gih đaŏ kiăng pơgang brơi kơ ƀing gih lĕ?
  38Ƀing gih brơi ƀing gơñu ƀơ̆ng laih rơmuă mơ̆ng khul gơnam ngă yang gih
   laih anŭn mơñum laih ia boh kơƀâo mơ̆ng gơnam pơyơr mơñum gih lĕ?
  Brơi ƀing gơñu tơgŭ rai djru ƀing gih bĕ!
   Brơi gơñu pha brơi kơ ƀing gih tơlơi tơu bĕ!”

  39Yahweh laĭ dơ̆ng, “Lăng bĕ ră anai! Kâo jing Yahweh laih anŭn Kâo pô yơh jing Ơi Adai!
   Rơngiao kơ Kâo ƀu hơmâo yang pơkŏn dơ̆ng tah hơmâo sĭt.
  Kâo dưi pơdjai hĭ laih anŭn dưi pơhơdip glaĭ,
   Kâo dưi pơrơka laih anŭn Kâo dưi pơhla̱o hĭ,
   laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô dưi pơklaih hĭ ôh mơ̆ng tơngan Kâo.
  40Kâo dŏ hơdip hlŏng lar,
   Kâo yơr đĭ tơngan Kâo pơ adai hăng ƀuăn rơ̆ng:
  41Tơdang Kâo săh đao plĭr plăr Kâo
   laih anŭn Kâo suă tơbiă đao anai kiăng kơ phat kơđi,
  Kâo či rŭ nua ƀơi ƀing rŏh ayăt Kâo
   laih anŭn kla glaĭ kơ ƀing pơrơmut kơ Kâo.
  42Kâo či pơkra ƀrŏm hraŏ Kâo mơñum drah gơñu,
   laih anŭn đao Kâo lun ƀơ̆ng čơđeh asar gơñu,
   jing drah ƀing rŏh ayăt Kâo wơ̆t hăng drah ƀing hlŭn mơnă.
  Kâo ăt či khăt hĭ mơ̆n tơkuai ƀing hơmâo ƀŭk glông jing ƀing djă̱ akŏ rŏh ayăt.”

  43Hơ̆k kơdơ̆k bĕ, Ơ ƀing lŏn čar hrŏm hăng ƀing ană plei Yahweh,
   yuakơ Ñu či rŭ nua brơi kơ drah ding kơna Ñu ƀing Israel.
  Ñu či rŭ nua ƀơi ƀing rŏh ayăt Ñu
   laih anŭn pơkra tơlơi pap brơi kơ anih lŏn Ñu laih anŭn kơ ƀing ană plei Ñu.
44Laih anŭn Môseh rai hrŏm hăng Yôsua ană đah rơkơi Nun laih anŭn ñu pơhiăp abih bang boh hiăp amăng tơlơi adoh anai ƀơi anăp ană plei ƀing Israel dŏ hơmư̆.
45Tơdơi kơ Môseh pơđŏk giŏng hĭ laih tơlơi pơhơdơr abih bang khul tơlơi juăt anai kơ ƀing Israel, 46ñu pơtă kơ ƀing gơ̆ tui anai, “Djă̱ pioh bĕ abih bang khul boh hiăp anai amăng pran jua jing khul boh hiăp kâo pơhaih rơđah laih kơ ƀing gih anai, tui anŭn ƀing gih dưi pơtă kơ ƀing ană bă gih pơñen tui gưt abih bang khul boh hiăp tơlơi juăt anai. 47Khul tơlơi anŭn ƀu djơ̆ kơnơ̆ng jing khul boh hiăp đôč đač kơ ƀing gih ôh, samơ̆ gơñu jing phŭn tơlơi hơdip kơ ƀing gih yơh. Tui gưt bĕ tơlơi anŭn, tui anŭn ƀing gih či hơdip sui yơh amăng anih lŏn gih či găn krong Yurdan kiăng kơ mă tŭ anai.”

Môseh Či Tơĭ Pran Ƀơi Čư̆ Nebô

48Ƀơi hrơi anŭn mơ̆n, Yahweh laĭ kơ Môseh, 49“Đĭ nao bĕ pơ tring Abarim kiăng nao pơ čư̆ Nebô amăng guai čar Môab, jing anih gah ngŏ̱ kơ plei pơnăng Yerêhô, laih anŭn lăng nao pơ čar Kanaan bĕ, jing anih lŏn Kâo či brơi kơ ƀing Israel jing kŏng ngăn gơñu pô. 50Pơ čư̆ anŭn yơh jing ƀơi čư̆ Nebô ih hơmâo đĭ anŭn, ih či djai laih anŭn wơ̆t glaĭ hrŏm hăng ƀing ơi adon ih, kar hăng ayŏng ih A̱rôn djai laih ƀơi čư̆ Hôr laih anŭn ñu wơ̆t glaĭ hrŏm hăng ƀing ơi adon gih. 51Anai jing yuakơ dua ƀing gih ƀu dŏ tŏng ten ôh hăng Kâo tơdang ƀing gih pơrơđah tơlơi ƀu tui gưt kơ Kâo ƀơi anăp ƀing Israel ƀơi khul anih ia Meribah Khades amăng Tơdron Ha̱r Zin. Anai ăt jing yuakơ ƀing gih ƀrưh mơhiăh kơ tơlơi rơgoh hiam hlo̱m Kâo tŏng krah ƀing Israel mơ̆n. 52Tui anŭn yơh, ih či ƀuh anih lŏn anŭn kơnơ̆ng mơ̆ng ataih đôč, laih anŭn ih ƀu dưi mŭt ôh amăng anih lŏn Kâo či brơi kơ ƀing Israel.”