11

1 Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy.

IV. Các điều dạy về sự nhóm lại để thờ phượng

(Từ 11:2 đến đoạn 14)

Cách đàn bà ăn mặc trong đám hội

2 Tôi khen anh em vì hay nhớ đến tôi trong mọi dịp, và lấy lòng trung tín mà giữ những điều tôi đã dạy dỗ anh em. 3 Dầu vậy, tôi muốn anh em biết Đấng Christ là đầu mọi người; người đàn ông là đầu người đàn bà; và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ. 4 Phàm người đàn ông cầu nguyện hoặc giảng đạo mà trùm đầu lại, thì làm nhục đầu mình. 5 Nhưng phàm người đàn bà cầu nguyện hoặc giảng đạo mà không trùm đầu lại, thì làm nhục đầu mình: Thật chẳng khác gì đã cạo đầu vậy. 6 Ví bằng người đàn bà không trùm đầu, thì cũng nên hớt tóc đi. Song nếu người đàn bà lấy sự hớt tóc hoặc cạo đầu làm xấu hổ, thì hãy trùm đầu lại.
7 Vả, đàn ông là hình ảnh và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, thì không nên trùm đầu; nhưng đàn bà là sự vinh hiển của đàn ông. 8 Bởi chưng không phải đàn ông ra từ đàn bà, bèn là đàn bà ra từ đàn ông; 9 không phải đàn ông vì cớ đàn bà mà được dựng nên, bèn là đàn bà vì cớ đàn ông vậy. 10 Bởi đó, vì cớ các thiên sứ, đàn bà phải có dấu hiệu trên đầu chỉ về quyền phép mình nương cậy. 11 Song trong Chúa thì chẳng phải đàn bà ngoại đàn ông, cũng chẳng phải đàn ông ngoại đàn bà; 12 vì, như đàn bà đã ra từ đàn ông, thì đàn ông cũng sanh bởi đàn bà, và cả thảy đều ra bởi Đức Chúa Trời.
13 Chính anh em hãy đoán xét điều nầy: Đàn bà cầu nguyện Đức Chúa Trời mà không trùm đầu là hiệp lẽ chăng? 14 Chính lẽ tự nhiên há chẳng dạy cho anh em biết đàn ông để tóc dài thì lấy làm hổ thẹn sao? 15 Nhưng, nếu đàn bà để tóc dài thì là lịch sự cho mình, vì đã ban tóc dài cho người, dường như khăn trùm vậy.
16 Bằng có ai muốn cãi lẽ, thì chúng tôi không có thói quen ấy, mà các Hội thánh Đức Chúa Trời cũng không có nữa.

Bữa ăn thân ái và Tiệc thánh

17 Trong khi tôi truyền lời cáo dụ nầy, chẳng phải khen anh em, vì sự nhóm lại của anh em không làm cho mình hay hơn mà làm cho mình dở hơn. 18 Trước hết, tôi nghe rằng khi anh em có sự nhóm họp Hội thánh, thì sanh ra sự phân rẽ; tôi cũng hơi tin điều đó. 19 Vì chắc trong vòng anh em phải có bè đảng, hầu cho được nhận biết trong anh em những kẻ nào thật là trung thành. 20 Vậy, khi anh em nhóm nhau lại một chỗ, ấy chẳng còn phải là Tiệc thánh của Chúa mà anh em ăn; 21 bởi vì lúc ngồi ăn, ai cũng nôn nả mà ăn bữa riêng mình, đến nỗi người nọ chịu đói, còn kẻ kia thì quá độ. 22 Anh em há chẳng có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh bỉ Hội thánh của Đức Chúa Trời, muốn làm cho những kẻ không có gì phải hổ thẹn? Tôi nên nói chi với anh em? Có nên khen anh em không? Trong việc nầy tôi chẳng khen đâu.
23 Vả, tôi có nhận nơi Chúa điều tôi đã dạy cho anh em: Ấy là Đức Chúa Jêsus, trong đêm Ngài bị nộp, lấy bánh, 24 tạ ơn, rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm điều nầy để nhớ ta. 25 Cũng một thể ấy, sau khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và phán rằng: Chén nầy là sự giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi uống, hãy làm điều nầy để nhớ ta. 26 Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến. 27 Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của Chúa cách không xứng đáng, thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa. 28 Vậy mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh uống chén ấy; 29 vì người nào không phân biệt thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự xét đoán cho mình.
30 Ấy vì cớ đó mà trong anh em có nhiều kẻ tật nguyền, đau ốm, và có lắm kẻ ngủ. 31 Nếu chúng ta biết xét đoán lấy mình, thì khỏi bị xét đoán. 32 Song khi chúng ta bị Chúa xét đoán, thì bị Ngài sửa phạt, hầu cho khỏi bị án làm một với người thế gian. 33 Hỡi anh em, vậy thì lúc anh em hội lại để ăn chung với nhau, hãy chờ đợi nhau. 34 Ví bằng có ai đói, hãy ăn tại nhà mình, hầu cho anh em không nhóm lại để mà chuốc lấy sự đoán xét.
 Còn các việc khác, lúc tôi đến sẽ đoán định.

11

1 Brei diih jing phung tui kâo, msĕ si kâo jing pô tui Krist.

Guôm Boh Kŏ Êjai Kkuh Mpŭ

2Kâo bi mni kơ diih kyuadah diih hdơr kơ kâo hlăm jih jang klei, leh anăn tui gưt klei kâo mtô leh kơ diih. 3Ƀiădah kâo čiăng brei diih thâo săng kơ Krist jing Khua kơ grăp čô êkei, leh anăn ung jing khua kơ mô̆ ñu, leh anăn Aê Diê jing khua kơ Krist. 4Hlei êkei wah lač amâodah hưn êlâo mâo boh kŏ guôm, amâo mpŭ kơ Krist ôh. 5Ƀiădah hlei mniê wah lač amâodah hưn êlâo mâo boh kŏ amâo guôm ôh, amâo mpŭ kơ ung ñu ôh — klei anăn jing msĕ si ñu kuêh leh ƀŭk ñu. 6Kyuadah tơdah sa čô mniê amâo guôm boh kŏ ñu ôh, snăn brei ñu kăp hĕ ƀŭk ñu. Ƀiădah tơdah jing klei hêñ kơ sa čô mniê mâo ƀŭk kăp amâodah kuêh leh, brei ñu guôm boh kŏ ñu. 7 Sa čô êkei amâo bhiăn ôh guôm boh kŏ ñu, kyuadah ñu jing rup leh anăn klei guh kơang kơ Aê Diê; ƀiădah mniê jing klei guh kơang kơ êkei. 8 Kyuadah Aê Diê amâo mjing êkei mơ̆ng mniê ôh, ƀiădah Aê Diê mjing mniê mơ̆ng êkei. 9Kăn djŏ rei Aê Diê hrih êkei kyua mniê, ƀiădah Aê Diê hrih mniê kyua êkei. 10Snăn kyua phung dĭng buăl jăk, brei mniê mâo čhiăm guôm boh kŏ ñu jing mnơ̆ng bi knăl ñu dôk ti gŭ klei dưi ung ñu. 11Ƀiădah hlăm Khua Yang, mniê yuôm mâo êkei, leh anăn êkei yuôm mâo mniê. 12Kyuadah msĕ si Aê Diê hrih mniê mơ̆ng êkei, msĕ snăn mơh ară anei mniê kkiêng kơ êkei. Leh anăn jih jang mnơ̆ng kbiă hriê mơ̆ng Aê Diê. 13Brei diih pô ksiêm, jing djŏ mơ̆ mniê wah lač kơ Aê Diê amâo guôm ôh boh kŏ? 14Amâo djŏ hĕ klei mnuih jing bi hriăm diih jing klei hêñ kơ sa čô êkei lui ƀŭk dlông? 15Ƀiădah tơdah sa čô mniê lui ƀŭk ñu dlông, jing klei guh kơang; kyuadah Aê Diê brei ƀŭk ñu jing mnơ̆ng guôm boh kŏ ñu. 16Tơdah sa čô čiăng bi tăng, hmei wăt jih jang Phung Sang Aê Diê amâo tŭ ôh ngă klei mkăn.

Klei Ƀơ̆ng Mnăm Sĭt Suôr

(Mat 26:26-29; Mark 14:22-25; Luk 22:14-20)

17Hlăm klei mtô ti gŭ anei, kâo amâo bi mni kơ diih ôh, kyuadah diih bi kƀĭn amâo djŏ čiăng jing jăk hĭn, ƀiădah jing jhat hĭn. 18Êlâo hĭn kâo hmư̆ leh tơdah diih bi kƀĭn jih Phung Sang Aê Diê, mâo klei bi kah phung ti krah diih. Kâo đăo klei anăn sa mkrah, 19kyuadah sĭt yơh mâo phung mdê mdê ti krah diih, čiăng kơ arăng dưi thâo kral hlei hlăm phung diih jing sĭt. 20Tơdah diih bi kƀĭn, diih amâo ƀơ̆ng mnăm klei sĭt suôr Khua Yang ôh. 21Kyua êjai huă ƀơ̆ng, grăp čô ruăt ƀơ̆ng mnơ̆ng ñu pô, kyuanăn mâo pô êpa, leh anăn mâo pô kpiê ruă. 22Si ngă? Diih amâo mâo sang pioh kơ anôk huă ƀơ̆ng amâodah mnăm mơ̆? Amâodah diih bi êmut kơ Phung Sang Aê Diê mơ̆ leh anăn bi hêñ phung amâo mâo mnơ̆ng ôh? Ya kâo srăng lač kơ diih? Kâo srăng bi mni kơ diih hlăm klei anei mơ̆? Hơăi, kâo amâo srăng bi mni kơ diih ôh.
23Kyuadah kâo mă tŭ leh mơ̆ng Khua Yang klei kâo mtô leh mơh kơ diih: êjai mlam arăng lhiăr kơ Ñu, Khua Yang Yêsu mă kpŭng. 24Leh wah lač klei bi mni, Ñu kjoh kpŭng anăn leh anăn lač, “Anei jing asei mlei kâo kjoh leh kơ diih. Ngă bĕ klei anei čiăng bi hdơr kơ kâo.” 25 Msĕ snăn mơh, leh diñu huă ƀơ̆ng Ñu mă atŏ leh anăn lač, “Atŏ anei jing klei bi mguôp mrâo hlăm êrah kâo. Grăp bliư̆ diih mnăm atŏ anei, ngă bĕ čiăng bi hdơr kơ kâo.” 26Kyuadah grăp bliư̆ diih ƀơ̆ng kpŭng anei leh anăn mnăm atŏ anei, diih hưn klei Khua Yang djiê tơl Ñu lŏ hriê.
27Kyuanăn hlei pô srăng ƀơ̆ng kpŭng amâodah mnăm atŏ Khua Yang hŏng klei amâo năng ôh, srăng jing soh hŏng asei mlei leh anăn êrah Khua Yang. 28Brei grăp čô ksiêm ñu pô, snăn ñu dưi ƀơ̆ng kpŭng leh anăn mnăm atŏ anăn. 29Kyuadah hlei pô ƀơ̆ng leh anăn mnăm amâo thâo săng ôh kơ asei mlei Khua Yang, ñu ƀơ̆ng leh anăn mnăm klei phat kđi kơ ñu pô. 30Kyua klei anăn mâo lu hlăm phung diih awăt leh anăn ruă duam leh anăn đa đa djiê leh. 31Tơdah drei ksiêm drei pô, drei amâo srăng tŭ klei phat kđi ôh. 32Ƀiădah tơdah Khua Yang phat kđi drei, Ñu mkra drei, čiăng kơ drei amâo srăng tŭ ôh klei bi kmhal mbĭt hŏng lăn ala.
33Snăn, Ơ phung ayŏng adei, tơdah diih bi kƀĭn kơ klei ƀơ̆ng mnăm sĭt suôr, bi guôn bĕ hdơ̆ng diih. 34Tơdah sa čô êpa, brei ñu ƀơ̆ng huă ti sang ñu pô, huĭdah diih bi kƀĭn mă tŭ klei phat kđi. Bi jih jang klei mkăn, kâo srăng mkra tơdah kâo truh.