9

Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên

1 Đấng tiên tri Ê-li-sê gọi một người trong bọn môn đồ của những tiên tri, mà nói rằng: Hãy thắt lưng, đem ve dầu nầy theo ngươi, và hãy đi đến Ra-mốt tại Ga-la-át. 2 Khi ngươi đã đến đó, hãy kiếm Giê-hu là con trai của Giô-sa-phát, cháu Nim-si, ở đâu; đoạn ngươi sẽ vào, khiến người chỗi dậy khỏi anh em mình, và dẫn người vào trong một phòng kín. 3 Bấy giờ, ngươi sẽ lấy ve dầu, đổ trên đầu người, và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Đoạn, hãy mở cửa ra và trốn đi, chớ huỡn đãi.
4 Như vậy, người tôi tớ trai trẻ của đấng tiên tri đi đến Ra-mốt tại Ga-la-át. 5 Khi người đến, các quan tướng đạo quân đương ngồi. Người nói với Giê-hu rằng: Hỡi quan tướng, tôi có chuyện nói với ông. Giê-hu đáp rằng: Có chuyện nói với ai trong chúng ta? Người trai trẻ đáp: Hỡi quan tướng, với ông. 6 Vậy, Giê-hu đứng dậy, và đi vào trong nhà. Người trai trẻ bèn đổ dầu trên đầu người, và nói rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên, là dân sự của Đức Giê-hô-va. 7 Ngươi sẽ đánh giết nhà A-háp, chủ ngươi; và ta sẽ báo Giê-sa-bên về huyết của các tiên tri, tôi tớ ta, cùng huyết của hết thảy tôi tớ của Đức Giê-hô-va. 8 Cả nhà A-háp sẽ bị diệt hết; các người nam của nhà A-háp, vô luận kẻ nô lệ hay là người được tự do ta sẽ giết khỏi trong Y-sơ-ra-ên; 9 và ta sẽ làm cho nhà A-háp giống như nhà Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, và giống như nhà Ba-ê-sa, con trai của A-hi-gia. 10 Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên trong đồng Gít-rê-ên; chẳng có ai chôn người. Đoạn, người trai trẻ mở cửa ra và chạy trốn.
11 Giê-hu bèn đi ra, đến cùng các tôi tớ của chủ mình. Chúng nó hỏi rằng: Mọi sự bình an chớ? Kẻ điên nầy đến kiếm anh mà chi? Người đáp với chúng nó rằng: Các ngươi biết người và lời của người nói. 12 Nhưng chúng nó đáp rằng: Nói dối! Hãy nói cho chúng ta. Vậy, người nói với chúng rằng; Người có nói với ta cách nầy cách kia, rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên. 13 Ai nấy liền lật đật lấy quần áo mình, trải xuống dưới chân người trên các nấc thang. Đoạn, chúng nó thổi kèn, và tung hô rằng: Giê-hu làm vua!

Giê-hu giết vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa

14 Ấy vậy, Giê-hu, con trai Giô-sa-phát, cháu Nim-si, làm phản Giô-ram.
 Vả, vì cớ Ha-xa-ên, vua Sy-ri, Giô-ram và cả quân Y-sơ-ra-ên đều binh vực Ra-mốt tại Ga-la-át;
15 nhưng vua Giô-ram đã trở về Gít-rê-ên đặng chữa lành những vít thương mà người đã bị bởi quân Sy-ri, khi người đánh giặc với Ha-xa-ên vua Sy-ri. Giê-hu bèn nói rằng: Nếu các ngươi vừa ý, chớ để một ai thoát khỏi thành đi thông tin cho Gít-rê-ên. 16 Vậy, Giê-hu lên xe, qua Gít-rê-ên, vì Giô-ram đau liệt nằm tại đó. A-cha-xia, vua Giu-đa, cũng đi xuống đó đặng thăm Giô-ram.
17 Lính canh đứng trên tháp Gít-rê-ên, thấy đạo quân của Giê-hu đến, bèn la lên rằng: Tôi thấy những đạo quân đến. Giô-ram liền bảo rằng: Hãy sai một người lính kị đi đón họ, và hỏi rằng: Bình an chăng? 18 Vậy, có người lính kị đi đón Giê-hu, và nói với người rằng: Vua hỏi: Bình an chăng? Giê-hu đáp: Sự bình an có can hệ chi ngươi? Hãy lui sau ta. Tên lính canh báo tin rằng: Sứ giả đã đi đến nơi quân ấy rồi, nhưng không trở về. 19 Người lại sai một người lính kị thứ nhì, cũng đến cùng chúng nó, và nói: Vua hỏi: Bình an chăng? Giê-hu đáp: Sự bình an có can hệ chi ngươi? Hãy lui sau ta. 20 Lính canh lại báo tin rằng: Sứ giả đã đến nơi chúng nó rồi, nhưng người không trở về. Vả, cách dẫn xe giống như cách của Giê-hu, con trai Nim-si, vì người dẫn cách hung hăng.
21 Giô-ram bèn nói rằng: Hãy thắng xe. Người ta thắng xe người. Đoạn, Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên, và A-cha-xia, vua Giu-đa, mỗi người đều lên xe mình, kéo ra đón Giê-hu, gặp người trong đồng ruộng của Na-bốt, người Gít-rê-ên. 22 Vừa khi Giô-ram thấy Giê-hu thì nói rằng: Hỡi Giê-hu, bình an chăng? Nhưng Giê-hu đáp rằng: Chi! Hễ sự gian dâm, sự tà thuật của Giê-sa-bên mẹ vua, còn nhiều dường ấy, thì bình an sao đặng? 23 Giô-ram bèn trở tay mình, chạy trốn, nói với A-cha-xia rằng: Ớ A-cha-xia, có mưu phản!
24 Giê-hu nắm lấy cung mình bắn, tên trúng nhằm Giô-ram giữa hai vai, thấu ngang trái tim, và người ngã xuống trong xe mình. 25 Đoạn, Giê-hu nói với Bích-ca, quan tướng mình rằng: Hãy đem liệng hắn trong đồng ruộng của Na-bốt, người Gít-rê-ên; vì khá nhớ lại một lần kia ta và ngươi đồng cỡi ngựa theo sau A-háp, cha hắn, --- thì Đức Giê-hô-va có phán về người lời lý đoán nầy: 26 Quả thật, hôm qua ta đã thấy huyết của Na-bốt và của các con trai người; ta cũng sẽ báo ngươi lại tại chánh nơi đồng ruộng nầy. Bởi cớ đó, hãy đem liệng hắn trong đồng ruộng nầy, y như lời của Đức Giê-hô-va đã phán.
27 Khi A-cha-xia, vua Giu-đa, thấy việc nầy, bèn chạy trốn về lối lầu vườn. Nhưng Giê-hu đuổi theo người, và biểu rằng: Cũng hãy đánh chết hắn trên xe hắn nữa. Họ bèn hãm đánh người, tại nơi dốc Gu-rơ, gần Gíp-lê-am. Đoạn, A-cha-xia trốn đến Mê-ghi-đô, và chết tại đó. 28 Các tôi tớ người để thây người trên một cái xe chở về Giê-ru-sa-lem, và chôn trong mồ người, chung cùng các tổ phụ người, tại thành Đa-vít. 29 A-cha-xia lên ngôi làm vua Giu-đa nhằm năm thứ mười một đời Giô-ram, con trai A-háp.

Giê-sa-bên bị chó xé ăn

30 Giê-hu liền đến tại Gít-rê-ên. Giê-sa-bên hay, bèn giồi phấn mặt mình, trang điểm đầu, và đứng trông nơi cửa sổ. 31 Khi Giê-hu đi qua cửa thành, nàng nói rằng: Hỡi Xim-ri, kẻ giết chúa mình! bình an chăng? 32 Giê-hu ngước mắt lên về hướng cửa sổ, nói rằng: Trên cao kia, ai thuộc về ta? Ai? Hai ba quan hoạn bèn ngó ra về hướng người. 33 Người kêu chúng rằng: Vậy, hãy ném nó xuống đất! Chúng ném nàng xuống đất, và huyết vọt lại trên tường và trên ngựa, rồi ngựa giày đạp nàng dưới chân. 34 Giê-hu vào. Ăn và uống xong, đoạn nói rằng: Vậy, hãy đi xem đàn bà khốn nạn và lo chôn nó, vì nó là con gái của vua. 35 Vậy, các tôi tớ đi đặng chôn nàng; nhưng chúng chỉ còn thấy cái sọ, hai chân, và lòng bàn tay nàng mà thôi. 36 Chúng trở về cho chủ mình hay điều đó. Giê-hu bèn nói: Ấy là lời của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng Ê-li, người Thi-sê-be, tôi tớ Ngài, mà phán rằng: Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên tại trong đồng ruộng Gít-rê-ên; 37 và thây nàng sẽ như phân trên mặt đất, trong ruộng Gít-rê-ên, đến đỗi người ta không thể nói rằng: Nầy là Giê-sa-bên.

9

Tơlơi Trôč Yêhu Jing Pơtao Ƀing Israel

1Pô pơala Êlisa iâu rai sa čô hlak ai mơ̆ng tơpul ƀing pô pơala laih anŭn pơtă kơ ñu tui anai, “Hruă bĕ ao jao ƀơi kơiăng ih, mă bĕ ge̱t ia jâo anai hrŏm hăng ih laih anŭn đuaĭ nao pơ plei pơnăng Ramôt-Gilead. 2Tơdang ih truh pơ plei anŭn, hơduah bĕ Yêhu ană đah rơkơi Yehôsaphat jing tơčô Nimsi laih anŭn brơi kơ ñu tơbiă mơ̆ng tơpul khua moa ling tơhan pơkŏn laih anŭn mŭt amăng sa boh anih gah lăm sang. 3Giŏng anŭn, mă bĕ ge̱t ia jâo anŭn, trôč bĕ ƀơi akŏ ñu laih anŭn pơhaih hăng ñu tui anai, ‘Anai yơh jing tơlơi Yahweh laĭ: Kâo trôč ih jing pơtao kơ ƀing Israel.’ Giŏng anŭn, pŏk bĕ bah amăng hăng đuaĭ mơtam bĕ! Anăm dŏ kơ̆ng kư ôh!”
4Tui anŭn, pô pơala anŭn, đuaĭ nao pơ plei pơnăng Ramôt-Gilead yơh. 5Tơdang ñu truh laih, ñu ƀuh ƀing khua moa ling tơhan dŏ be̱r hrŏm hơbĭt. Ñu laĭ tui anai, “Kâo hơmâo sa tơlơi pơtă kơ ih, Ơ khua git gai hơi.”
 Yêhu tơña tui anai, “Kơ hlơi pô amăng ƀing gơmơi lĕ?”
 Ñu laĭ glaĭ, “Kơ ih yơh, Ơ khua git gai ăh.”
6Tui anŭn, Yêhu tơgŭ tơbiă mơ̆ng ƀing khua moa anŭn laih anŭn mŭt amăng sang. Giŏng anŭn, pô pơala tuh ia jâo ƀơi akŏ Yêhu laih anŭn pơhaih tui anai, “Anai yơh jing tơlơi Yahweh Ơi Adai ƀing Israel laĭ: Kâo trôč ih jing pơtao kơ ƀing ană plei Kâo Israel. 7Ih khŏm pơrai hĭ abih sang anŏ pơtao Ahab jing khua ih anŭn. Tui anŭn, Kâo či rŭ nua kơ drah ƀing ding kơna Kâo, jing ƀing pô pơala, laih anŭn ăt rŭ nua kơ abih bang ƀing ding kơna Yahweh, jing ƀing hơbia HʼYêzebel hơmâo ngă tuh drah gơñu laih mơ̆n. 8Abih bang sang anŏ Ahab či răm rai. Kâo či pơrai hĭ ƀing đah rơkơi mơ̆ng sang anŏ ñu amăng ƀing Israel, wơ̆t hăng ƀing tơdu rơmơ̆n ƀôdah ƀing ƀun rin yơh. 9Kâo či ngă kơ sang anŏ pơtao Ahab hrup hăng Kâo hơmâo ngă laih kơ sang anŏ pơtao Yarobam ană đah rơkơi Nebat laih anŭn ăt hrup hăng tơlơi Kâo ngă laih kơ sang anŏ pơtao Baasa ană đah rơkơi Ahiyah mơ̆n. 10Bơ kơ hơbia HʼYêzebel, khul asâo či kĕ ƀơ̆ng ñu ƀơi đang hơma amăng plei Yizreel laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô nao dơ̱r ñu ôh.” Laih kơ pô pơala pơhaih tơlơi anŭn, ñu pŏk bah amăng hăng đuaĭ hĭ mơtam yơh.
11Tơdang Yêhu wơ̆t glaĭ pơ ƀing gŏp ñu jing ƀing khua moa anŭn, sa čô amăng ƀing gơñu tơña tui anai, “Abih bang tơlơi hiam klă mơ̆? Yua hơget pô hưt dư anŭn rai hơduah ih lĕ?”
 Yêhu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀing gih thâo laih hơdră hrup hăng pô anŭn laih anŭn khul mơta tơlơi pô anŭn pơhiăp.”
12Ƀing gơñu laĭ tui anai, “Ƀu djơ̆ tui anŭn ôh. Ruai tơpă bĕ kơ ƀing gơmơi.”
 Yêhu laĭ tui anai, “Anai yơh jing tơlơi ñu laĭ kơ kâo mơ̆ng Yahweh tui anai: Kâo trôč ƀơi ih ngă pơtao kơ ƀing Israel.”
13Giŏng anŭn, ƀing gơñu ječ ameč mă khul ao jao gơñu la̱ng trŭn ƀơi jơlan rơñan kiăng kơ ñu dŏ dơ̆ng ƀơi anŭn laih anŭn ayŭp đĭ tơdiăp hăng ur kraih tui anai, “Yêhu jing pơtao!”

Yêhu Pơdjai Hĭ Pơtao Yôram Laih Anŭn Pơtao Ahazyah

14Tui anŭn, Yêhu jing ană Yehôsaphat, tơčô Nimsi, črong sai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao Yôram yơh.
 Hlak anŭn, pơtao Yôram dŏ pơ plei Yizreel. Tơdang ñu hăng abih bang ƀing ling tơhan Israel hlak blah pơgang plei pơnăng Ramôt-Gilead pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Hazaêl pơtao ƀing Aram,
15yuakơ ƀing Aram hơmâo pơrơka hĭ laih ñu amăng tơlơi pơblah anŭn. Tui anŭn, pơtao Yôram hơmâo wơ̆t glaĭ laih pơ plei Yizreel kiăng pơhla̱o hĭ ruă rơka ñu anŭn.
 Tui anŭn, Yêhu laĭ hăng ƀing khua moa ñu tui anai, “Tơdah ƀing gih kiăng kơ kâo jing pơtao, anăm brơi ôh hlơi pô tơbiă đuaĭ hĭ mơ̆ng plei Ramôt-Gilead anai kiăng nao ruai tơlơi pơthâo phrâo pơ plei Yizreel.”
16Giŏng anŭn, ñu đĭ ƀơi rơdêh aseh ñu nao pơ anih Yizreel yuakơ Yôram hlak pơdơi pơ anih anŭn yuakơ ñu aka suaih ôh, laih anŭn Ahazyah jing pơtao ƀing Yudah ăt trŭn nao čuă ñu pơ anŭn mơ̆n.
17Tơdang pô kơčăng dŏ dơ̆ng ƀơi sang kơtŭm amăng plei Yizreel ƀuh Yêhu wơ̆t hăng ling tơhan rai, ñu laĭ pơthâo kraih kơ pơtao tui anai, “Kâo ƀuh ƀing ling tơhan hlak rai.”
 Yôram pơđar tui anai, “Pơkiaŏ bĕ sa čô tơhan aseh nao čơkă laih anŭn tơña tui anai: Ƀing gih rai hăng tơlơi rơnŭk rơnua mơ̆?”
18Pô tơhan aseh anŭn đuaĭ nao čơkă Yêhu laih anŭn tơña tui anai, “Anai yơh jing tơlơi pơtao tơña: Ƀing gih rai hăng tơlơi rơnŭk rơno̱m mơ̆?”
 Yêhu laĭ glaĭ tui anai, “Tơlơi rơnŭk rơno̱m ƀu tĕk djơ̆ hăng ih ôh! Dŏ gah rŏng kâo bĕ.”
 Giŏng anŭn pô tơhan kơčăng amăng plei ruai kraih dơ̆ng tui anai, “Ding kơna nao truh laih pơ ƀing gơñu, samơ̆ ñu ƀu wơ̆t glaĭ ôh.”
19Tui anŭn, pơtao pơkiaŏ nao sa čô tơhan aseh tal dua dơ̆ng. Tơdang ñu nao truh pơ ƀing Yêhu, ñu tơña tui anai, “Anai jing tơlơi pơtao tơña: Ƀing gih rai hăng tơlơi rơnŭk rơno̱m mơ̆?”
 Yêhu laĭ glaĭ tui anai, “Tơlơi rơnŭk rơno̱m ƀu tĕk djơ̆ hăng ih ôh! Dŏ gah rŏng kâo bĕ.”
20Pô kơčăng ruai glaĭ kraih dơ̆ng tui anai, “Ñu nao truh laih, samơ̆ ñu ƀu wơ̆t glaĭ ôh. Kâo ƀuh hơdră gai rơdêh aseh anŭn hrup hăng hơdră Yêhu ană đah rơkơi Nimsi gai, yuakơ ñu gai rơdêh rơañ mañ biă mă.”
21Yôram pơđar tui anai, “Prap pre brơi bĕ rơdêh aseh kơ kâo.” Laih kơ arăng prap pre brơi laih, Yôram pơtao ƀing Israel laih anŭn Ahazyah pơtao ƀing Yudah đĭ tơbiă, rĭm čô ƀing gơñu đĭ ƀơi rơdêh aseh ñu pô kiăng kơ nao bưp Yêhu. Ƀing gơñu bưp Yêhu ƀơi lŏn hơma lŏm kơ Nabôt mơnuih Yizreel hlâo adih. 22Tơdang Yôram ƀuh Yêhu, ñu tơña tui anai, “Ih hơmâo rai hăng tơlơi rơnŭk rơno̱m mơ̆, Ơ Yêhu?”
 Yêhu laĭ glaĭ tui anai, “Hiư̆m dưi hơmâo tơlơi rơnŭk rơno̱m lĕ, tơdang abih bang tơlơi rĭh răm laih anŭn tơlơi pơjâo gai amĭ ih HʼYêzebel hơmâo dŏ laih jum dar ƀing ta lĕ?”
23Yôram wir đuaĭ kơdŏp laih anŭn ñu ur kraih kơ Ahazyah tui anai, “Ơ Ahazyah, hơmâo tơlơi pơblư̆ pơtao!”
24Giŏng anŭn, Yêhu wă̱ hraŏ ñu laih anŭn pơnăh djơ̆ Yôram kơplăh wăh bra ñu, hluh trŭn nao pơ hơtai boh ñu, tui anŭn ñu rơbuh amăng rơdêh aseh ñu yơh. 25Yêhu laĭ kơ Bidkar, jing ding kơna ñu, tui anai, “Yŏng đĭ bĕ Yôram laih anŭn glŏm mŭt amăng hơma, jing hơma ama ñu sua mă mơ̆ng Nabôt mơnuih Yizreel hlâo adih. Sĭt ih hơdơr yơh hiư̆m ƀing ta hlak đĭ hrŏm ƀơi rơdêh aseh gah rŏng kơ Ahab jing ama ñu tơdang Yahweh pơhaih laĭ lui hlâo laih kơ Ahab tui anai: 26Tơ̆m brơi kâo ƀuh drah Nabôt wơ̆t hăng drah ƀing ană đah rơkơi ñu, tui anŭn sĭt Kâo ăt či ngă brơi kơ ih kla glaĭ kơ drah anŭn ƀơi lŏn hơma anai mơ̆n.” Giŏng anŭn, Yêhu laĭ dơ̆ng hăng Bidkar tui anai, “Yŏng đĭ bĕ atâo Yôram laih anŭn glŏm mŭt amăng hơma anŭn tui hăng boh hiăp Yahweh laĭ laih.”
27Tơdang Ahazyah, jing pơtao ƀing Yudah, ƀuh hơget tơlơi hơmâo truh laih, ñu đuaĭ kơdŏp ƀơi jơlan đĭ nao pơ plei Bêt-Haggan. Samơ̆ Yêhu kiaŏ tui ñu laih anŭn ur kraih hăng ƀing ling tơhan ñu tui anai, “Pơdjai hĭ ñu mơ̆n!” Tui anŭn, ƀing gơñu pơrơka hĭ Ahazyah amăng rơdêh aseh gơ̆ tơdang gơ̆ đĭ nao jơlan čư̆ jĕ anih Gur jing jĕ plei pơnăng Yibleam, samơ̆ gơ̆ đuaĭ kơdŏp pơ plei pơnăng Megiđô laih anŭn djai hĭ pơ plei anŭn. 28Ƀing ding kơna gơ̆ ba glaĭ gơ̆ wơ̆t hăng rơdêh aseh gơ̆ nao pơ plei Yerusalaim laih anŭn dơ̱r hĭ gơ̆ hrŏm hăng ƀing ơi adon ñu, jing amăng pơsat ƀơi Plei Dawid yơh.
29Amăng thŭn tal pluh-sa rơnŭk Yôram ană đah rơkơi Ahab, Ahazyah hơmâo jing laih pơtao kơ ƀing Yudah.

Tơlơi Pơdjai Hơbia HʼYêzebel

30Giŏng anŭn, Yêhu nao pơ plei Yizreel. Tơdang HʼYêzebel hơmư̆ kơ tơlơi anŭn, ñu pik mơta ñu, pơhrôp ƀŭk ñu laih anŭn lăng trŭn mơ̆ng sa boh amăng phă̱ pơ glông. 31Tơdang Yêhu mŭt ƀơi amăng ja̱ng plei, HʼYêzebel tơña tui anai, “Ih hơmâo rai hăng tơlơi rơnŭk rơnua mơ̆, Ơ Zimri hơi, jing pô pơdjai hĭ laih khua ih?”
32Yêhu lăng đĭ pơ amăng phă̱ laih anŭn pơhiăp kraih tui anai, “Hlơi jing pô dŏ gah kâo lĕ? Hlơi lĕ?” Hơmâo dua klâo čô ƀing khua moa sang pơtao lăng trŭn ƀơi ñu. 33Yêhu pơđar kơ ƀing gơñu tui anai, “Glŏm trŭn ñu bĕ!” Tui anŭn, ƀing gơñu glŏm trŭn HʼYêzebel laih anŭn đơđa drah ñu kơčaĭ nao pơ pơnăng plei laih anŭn pơ khul aseh yơh. Laih anŭn khul aseh Yêhu juă jơlit hĭ gơ̆ gah yŭ čôp tơkai gơñu.
34Yêhu mŭt nao ƀơ̆ng hăng mơñum amăng sang pơtao. Giŏng anŭn ñu pơtă tui anai, “Ƀlơ̆ng brơi bĕ kơ đah kơmơi hơtŏm păh anŭn laih anŭn nao dơ̱r hĭ bĕ ñu, yuakơ ñu jing ană đah kơmơi pơtao.” 35Samơ̆ tơdang ƀing gơñu tơbiă kiăng nao dơ̱r ñu, ƀing gơñu hơduah ƀu ƀuh ôh, kơnơ̆ng ƀuh tơlang akŏ, laih anŭn plă̱ tơkai tơngan ñu đôč. 36Ƀing gơñu wơ̆t glaĭ ruai kơ khua gơñu Yêhu, samơ̆ Yêhu laĭ tui anai, “Anai yơh jing boh hiăp Yahweh hơmâo pơhiăp laih mơ̆ng ding kơna Ñu Êliyah mơnuih Tisbe tui anai: Ƀơi lŏn hơma anih Yizreel anai yơh khul asâo či kĕ ƀơ̆ng hĭ drơi jan HʼYêzebel. 37Drơi jan HʼYêzebel či jing hĭ kar hăng kơmơ̆k ƀơi lŏn tơnah, jing amăng lŏn hơma ƀơi jum dar plei Yizreel yơh, tui anŭn yơh ƀu hơmâo hlơi pô ôh dưi thâo kơnăl drơi jan HʼYêzebel.”