1 Trong thành Sê-sa-rê, có một người tên là Cọt-nây, làm đội trưởng của đội binh gọi là Y-ta-li. 2 Người vẫn là đạo đức, cùng cả nhà mình đều kính sợ Đức Chúa Trời, người hay bố thí cho dân, và cầu nguyện Đức Chúa Trời luôn không thôi. 3 Đương ban ngày, nhằm giờ thứ chín,⚓ người thấy rõ ràng trong sự hiện thấy có một vị thiên sứ của Đức Chúa Trời vào nhà mình, và truyền rằng: Hỡi Cọt-nây! 4 Đôi mắt người ngó chăm thiên sứ và run sợ lắm, thưa rằng: Lạy Chúa, có việc chi? Thiên sứ nói: Lời cầu nguyện cùng sự bố thí ngươi đã lên thấu Đức Chúa Trời, và Ngài đã ghi nhớ lấy. 5 Vậy, bây giờ hãy sai người đến thành Giốp-bê, mời Si-môn nào đó, cũng gọi là Phi-e-rơ. 6 Người hiện trọ nơi Si-môn, là thợ thuộc da, nhà ở gần biển. 7 Khi thiên sứ, là đấng truyền cho người, đã trở lui, thì Cọt-nây gọi hai người trong đám đầy tớ mình và một tên lính tin kính trong những lính thuộc về mình, 8 mà thuật lại mọi điều cho họ nghe, rồi sai đến thành Giốp-bê. 9 Bữa sau, trong lúc ba người ấy đương đi đường và đã đến gần thành, vừa nhằm giờ thứ sáu⚓ Phi-e-rơ leo lên mái nhà để cầu nguyện. 10 Người đói và thèm ăn; khi người ta đương dọn cho ăn, thì người bị ngất trí đi. 11 Người thấy trời mở ra, và có vật chi giống một bức khăn lớn níu bốn chéo lên, giáng xuống và sa đến đất: 12 Thấy trong đó có những thú bốn cẳng, đủ mọi loài, côn trùng bò trên đất, và chim trên trời. 13 Lại có tiếng phán cùng người rằng: Hỡi Phi-e-rơ, hãy dậy, làm thịt và ăn. 14 Song Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chẳng vậy; vì tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy chẳng sạch bao giờ. 15 Tiếng đó lại phán cùng người lần thứ hai rằng: Phàm vật chi Đức Chúa Trời đã làm cho sạch, thì chớ cầm bằng dơ dáy. 16 Lời đó lặp lại ba lần; rồi vật ấy liền bị thâu lên trên trời. 17 Phi-e-rơ đương nghi ngờ về ý nghĩa của sự hiện thấy mình đã thấy, thì các người mà Cọt-nây sai đi đã hỏi thăm được nhà Si-môn, và tới đứng tận cửa. 18 Họ kêu và hỏi đây có phải là nơi Si-môn tức Phi-e-rơ ở chăng. 19 Phi-e-rơ còn đương ngẫm nghĩ về sự hiện thấy đó, thì Đức Thánh Linh phán cùng người rằng: Kìa, có ba người đương tìm ngươi. 20 Vậy, hãy đứng dậy, xuống mà đi với họ, chớ hồ nghi, vì ta đã sai họ đó. 21 Phi-e-rơ bèn xuống cùng họ mà nói rằng: Ta đây, là người các ngươi đương tìm; các ngươi đến đây có việc gì? 22 Họ trả lời rằng: Đội trưởng Cọt-nây là người công bình, kính sợ Đức Chúa Trời, cả dân Giu-đa đều làm chứng tốt về người, người đó đã bởi một vị thiên sứ thánh mà chịu mạng lịnh từ nơi cao rằng phải mời ông về nhà và nghe lời ông. 23 Phi-e-rơ bèn mời họ vào nhà và cho trọ lại đó. Ngày mai, Phi-e-rơ chờ dậy đi với họ, có một vài người trong hàng anh em từ Giốp-bê cùng đi với. 24 Bữa sau, đến thành Sê-sa-rê. Cọt-nây với bà con và bạn thiết mà người đã nhóm lại tại nhà mình đương chờ đợi. 25 Phi-e-rơ vừa vào, thì Cọt-nây ra rước, phục xuống dưới chân người mà lạy. 26 Nhưng Phi-e-rơ đỡ người dậy, nói rằng: Ngươi hãy đứng dậy, chính ta cũng chỉ là người mà thôi. 27 Phi-e-rơ đương nói chuyện với Cọt-nây, bước vào, thấy có nhiều người nhóm lại. 28 Người nói cùng chúng rằng: Người Giu-đa vốn không được phép giao thông với người ngoại quốc hay là tới nhà họ; nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ cho ta biết chẳng nên coi một người nào là ô uế hay chẳng sạch. 29 Nên khi các ngươi đã sai tìm, thì ta chẳng ngại gì mà đến đây. Vậy ta hỏi vì việc chi mà các ngươi mời ta đến. 30 Cọt-nây trả lời rằng: Đã bốn ngày nay, nhằm giờ thứ chín, tôi đương ở nhà cầu nguyện, thình lình có một người mặc áo sáng lòa, hiện ra trước mặt tôi, 31 mà phán rằng: Hỡi Cọt-nây, lời cầu nguyện ngươi đã được nhậm, Đức Chúa trời đã ghi nhớ việc bố thí của ngươi. 32 Vậy, ngươi hãy sai đến thành Giốp-bê, mời Si-môn, là Phi-e-rơ đến đây: Người đương ở tại nhà Si-môn, thợ thuộc da, gần biển. 33 Tức thì tôi sai tìm ông, mà ông đến đây là rất phải. Vậy, bây giờ, thay thảy chúng tôi đang ở trước mặt Đức Chúa Trời, để nghe mọi điều Chúa đã dặn ông nói cho chúng tôi. 34 Phi-e-rơ bèn mở miệng nói rằng: Quả thật, ta biết Đức Chúa Trời chẳng hề vị nể ai,⚓35 nhưng trong các dân, hễ ai kính sợ Ngài và làm sự công bình, thì nấy được đẹp lòng Chúa. 36 Ấy là lời Ngài đã phán cùng con cái Y-sơ-ra-ên, khi rao giảng tin lành về sự bình an bởi Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Chúa của loài người. 37 Việc đã bắt đầu từ xứ Ga-li-lê rồi tràn ra trong cả xứ Giu-đê, kế sau Giăng đã giảng ra phép báp-têm, thì các ngươi biết rồi; 38 thể nào Đức Chúa Trời đã xức cho Đức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét bằng Đức Thánh Linh và quyền phép, rồi Ngài đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm phước và chữa lành hết thảy những người bị ma quỉ ức hiếp; vì Đức Chúa Trời ở cùng Ngài. 39 Chúng ta từng chứng kiến về mọi điều Ngài đã làm trong xứ người Giu-đa và tại thành Giê-ru-sa-lem. Chúng đã treo Ngài trên cây gỗ mà giết đi. 40 Nhưng ngày thứ ba, Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại, lại cho Ngài được tỏ ra, 41 chẳng hiện ra với cả dân chúng, nhưng với những kẻ làm chứng mà Đức Chúa Trời đã chọn trước, tức là với chúng ta, là kẻ đã ăn uống cùng Ngài, sau khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. 42 Lại Ngài đã biểu chúng ta khá giảng dạy cho dân chúng, và chứng quyết chính Ngài là Đấng Đức Chúa Trời đã lập lên để đoán xét kẻ sống và kẻ chết. 43 Hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài. 44 Khi Phi-e-rơ đương nói, thì Đức Thánh Linh giáng trên mọi người nghe đạo. 45 Các tín đồ đã chịu phép cắt bì, là những kẻ đồng đến với Phi-e-rơ, đều lấy làm lạ, vì thấy sự ban cho Đức Thánh Linh cũng đổ ra trên người ngoại nữa. 46 Vì các tín đồ đó nghe họ nói tiếng ngoại quốc và khen ngợi Đức Chúa Trời. 47 Bấy giờ Phi-e-rơ lại cất tiếng nói rằng: Người ta có thể từ chối nước về phép báp-têm cho những kẻ đã nhận lấy Đức Thánh Linh cũng như chúng ta chăng? 48 Người lại truyền làm phép báp-têm cho họ nhân danh Đức Jêsus Christ. Họ bèn nài người ở lại với mình một vài ngày.
10
Y-Pêtrôs leh anăn Y-Kornei
1Ti ƀuôn Sêsarê mâo sa čô êkei anăn ñu Y-Kornei, khua kahan kơ sa êtuh čô phung kahan Itali, 2sa čô mâo klei đăo, thâo huĭ mpŭ kơ Aê Diê mbĭt hŏng jih phung hlăm sang ñu. Ñu brei lu mnơ̆ng pap hŏng klei kmah kơ phung ƀuôn sang, leh anăn ñu wah lač kơ Aê Diê nanao. 3Sa hruê hlăm brô tlâo mông tlam ñu ƀuh klă hlăm klei bi ƀuh sa čô dĭng buăl jăk Aê Diê mŭt hlăm sang ñu leh anăn lač kơ ñu, “Ơ Y-Kornei.” 4Hŏng klei huĭ snăk ñu dlăng amâo kƀreh ală ôh kơ dĭng buăl jăk leh anăn lač, “Ya klei mâo, Ơ Khua?” Dĭng buăl jăk lač kơ ñu, “Klei ih wah lač leh anăn mnơ̆ng ih brei pap đĭ leh truh kơ Aê Diê, leh anăn Aê Diê hdơr kơ klei anăn. 5Ară anei tiŏ nao bĕ mnuih kơ ƀuôn Jôpa, leh anăn iêu Y-Simôn lŏ bi anăn Y-Pêtrôs. 6Ñu dôk mbĭt hŏng Y-Simôn, sa čô mnuih mkra klĭt, hlăm sang gơ̆ ti hang êa ksĭ.” 7Tơdah dĭng buăl jăk pô blŭ hŏng ñu đuĕ leh, Y-Kornei iêu dua čô dĭng buăl ñu leh anăn sa čô kahan mâo klei đăo hlăm phung kahan mă bruă kơ ñu. 8Leh ñu yăl dliê jih klei anăn kơ digơ̆, ñu tiŏ nao digơ̆ kơ ƀuôn Jôpa. 9Hruê mgi êjai digơ̆ nao giăm truh ti ƀuôn Jôpa, Y-Pêtrôs đĭ ti čuôr sang čiăng wah lač hlăm brô yang hruê dơ̆ng. 10Ñu êpa čiăng huă, ƀiădah êjai arăng mkra mnơ̆ng ƀơ̆ng huă kơ ñu, ñu mâo sa klei bi ƀuh. 11Ñu ƀuh adiê pŏk mdah, leh anăn mâo mnơ̆ng msĕ si sa blah čhiăm prŏng kă leh ti pă bĭt kiêng mtrŭn truh ti lăn. 12Hlăm anăn mâo djăp mta hlô mnơ̆ng pă ƀĕ jơ̆ng, mnơ̆ng êbat ban, leh anăn čĭm hlăm adiê. 13Mâo sa asăp blŭ lač kơ ñu, “Ơ Y-Pêtrôs, kgŭ koh ƀơ̆ng bĕ.” 14Ƀiădah Y-Pêtrôs lač, “Hơăi, Ơ Khua Yang; kyuadah kâo amâo tuôm ƀơ̆ng ôh mnơ̆ng čhŏ tui si klei bhiăn amâodah amâo doh.” 15Asăp blŭ anăn lŏ lač kơ ñu tal dua, “Ya mnơ̆ng Aê Diê bi doh leh, đăm yap amâo doh ôh.” 16Klei blŭ anăn truh tlâo bliư̆, leh anăn bhiâo hin čhiăm anăn lŏ hrui wĭt phă adiê. 17Êjai Y-Pêtrôs rŭng răng amâo thâo săng ôh si mblang klei bi ƀuh anăn, nĕ anei phung mnuih Y-Kornei tiŏ nao truh leh. Digơ̆ êmuh duah leh kơ sang Y-Simôn, leh anăn dôk ti anăp ƀăng jang. 18Digơ̆ iêu kraih êmuh thâodah Y-Simôn lŏ bi anăn Y-Pêtrôs dôk tinăn. 19Êjai Y-Pêtrôs mĭn kơ klei bi ƀuh anăn, Yang Mngăt Jăk lač kơ ñu, “Nĕ anei, tlâo čô mnuih duah ih. 20Kgŭ trŭn nao kơ digơ̆, leh anăn nao bĕ mbĭt hŏng digơ̆, đăm ngă kĭ kơ̆ ôh; kyuadah kâo yơh tiŏ hriê digơ̆.” 21Snăn Y-Pêtrôs trŭn nao kơ phung mnuih anăn leh anăn lač, “Kâo gơ̆ yơh pô diih duah. Ya klei diih čiăng hriê?” 22Digơ̆ lač, “Y-Kornei, sa čô khua kahan kơ sa êtuh čô, sa čô kpă leh anăn huĭ mpŭ kơ Aê Diê, Pô jih jang phung Yuđa mpŭ. Mâo sa čô dĭng buăl doh jăk mtă brei hriê iêu ih nao kơ sang ñu, čiăng hmư̆ klei ih mtô.” 23Snăn Y-Pêtrôs iêu digơ̆ mŭt dôk hlăm sang mbĭt hŏng ñu. Hruê mgi ñu kgŭ nao mbĭt hŏng digơ̆, mâo đa đa ayŏng adei mơ̆ng ƀuôn Jôpa nao mbĭt hŏng ñu. 24Hruê êdei kơ anăn diñu truh ti ƀuôn Sêsarê. Y-Kornei dôk guôn diñu, leh anăn iêu bi kƀĭn leh phung găp djuê leh anăn phung mah jiăng ñu. 25Tơdah Y-Pêtrôs mŭt, Y-Kornei drông ñu leh anăn buôn ti jơ̆ng kkuh mpŭ kơ ñu. 26Ƀiădah Y-Pêtrôs rŭ gơ̆ kgŭ leh anăn lač, “Kgŭ dơ̆ng bĕ, kâo msĕ mơh jing knŏng sa čô mnuih.” 27Êjai Y-Pêtrôs blŭ hŏng gơ̆ ñu mŭt hlăm sang leh anăn ƀuh lu mnuih bi kƀĭn leh. 28Y-Pêtrôs lač kơ digơ̆, “Diih pô thâo leh amâo bhiăn ôh sa čô Yuđa bi mguôp amâodah čhưn hŏng sa čô mnuih čar mkăn. Ƀiădah Aê Diê bi êdah leh kơ kâo đăm brei yap sa čô mnuih čhŏ amâodah amâo doh ôh. 29Snăn tơdah diih tiŏ nao mnuih iêu kâo, kâo amâo hngah hriê ôh. Snăn kâo êmuh ya klei diih čiăng iêu kâo hriê?” 30Y-Kornei lač, “Êgao leh pă hruê, hlăm brô mông anei, kâo pioh mông wah lač ti tlâo mông tlam hlăm sang kâo; leh anăn bhiâo riâo rit, sa čô êkei hơô ao mngač snăk dôk ti anăp kâo, 31lač, ‘Ơ Y-Kornei, Aê Diê hmư̆ leh klei ih wah lač, leh anăn Ñu hdơr mnơ̆ng ih brei pap. 32Snăn tiŏ nao bĕ mnuih kơ ƀuôn Jôpa leh anăn iêu Y-Simôn lŏ bi anăn Y-Pêtrôs. Ñu dôk hlăm sang Y-Simôn, sa čô mkra klĭt, ti hang êa ksĭ.’ 33Snăn kâo tiŏ nao mtam mnuih iêu ih, leh anăn ih mâo ai tiê jăk čiăng hriê. Snăn ară anei jih jang hmei dôk ti anăp Aê Diê, čiăng hmư̆ jih klei Khua Yang mtă kơ ih blŭ.”
Klei Y-Pêtrôs Mtô
34 Y-Pêtrôs ha blŭ leh anăn lač, “Sĭt nik kâo thâo săng kơ Aê Diê amâo yap mnuih mdê mdê ôh, 35ƀiădah hlăm jih jang găp djuê mnuih Aê Diê tŭ hlei pô huĭ mpŭ kơ Ñu leh anăn ngă klei kpă ênô. 36Diih thâo Aê Diê mơĭt leh klei blŭ kơ phung Israel, čiăng hưn klei mrâo mrang jăk kơ klei êđăp ênang mơ̆ng Yêsu Krist (gơ̆ jing Khua Yang kơ jih jang). 37Diih thâo leh klei blŭ anăn arăng hưn tar čar Yuđa, dơ̆ng mơ̆ng čar Galilê êdei kơ klei ƀaptem Y-Yôhan mtô: 38si Aê Diê trôč leh êa ƀâo mngưi kơ Yêsu ƀuôn Nasaret hŏng Yang Mngăt Jăk leh anăn klei myang; si Ñu hiu ngă klei jăk leh anăn bi hlao jih jang mnuih yang jhat ktư̆ juă, kyuadah Aê Diê dôk mbĭt hŏng Ñu. 39Hmei jing phung hưn bi sĭt kơ jih klei Ñu ngă leh hlăm čar phung Yuđa leh anăn hlăm ƀuôn Yêrusalem. Phung Yuđa pơ̆ng bi mdjiê Ñu leh ti kyâo bi kal. 40Ƀiădah ti hruê tal tlâo Aê Diê bi kbiă lŏ hdĭp Ñu leh anăn bi êdah Ñu, 41amâo djŏ kơ jih jang phung ƀuôn sang ôh, ƀiădah kơ hmei phung Aê Diê ruah leh jing phung hưn bi sĭt. Hmei ƀơ̆ng mnăm leh mbĭt hŏng Ñu leh Ñu kbiă lŏ hdĭp mơ̆ng phung djiê. 42Leh anăn Ñu mtă leh kơ hmei brei mtô kơ phung ƀuôn sang, leh anăn hưn bi sĭt kơ klei Aê Diê mjing Ñu Khua phat kđi kơ phung hdĭp leh anăn kơ phung djiê. 43Jih jang phung khua pô hưn êlâo hưn leh hlei pô đăo kơ Ñu mâo klei pap brei kơ klei soh hlăm anăn Ñu.”