13

II. Tin Lành được truyền giảng cho các dân ngoại

(13:1 – 28:31)

Phao-lô và Ba-na-ba được sai đi truyền giáo

1Trong Hội Thánh tại An-ti-ốt có các nhà tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-hem là em nuôi vua Hê-rốt, và Sau-lơ. 2Đang khi họ thờ phượng Chúa và kiêng ăn thì Đức Thánh Linh phán: “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho công tác Ta đã kêu gọi họ.” 3Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và sai đi.

Phao-lô và Ba-na-ba tại đảo Síp. – Sê-giút Phao-lút quy đạo

4Được Đức Thánh Linh sai phái, hai ông xuống Sê-lơ-xi, rồi từ đó đáp tàu đến đảo Síp. 5Đến Sa-la-min, họ công bố lời Đức Chúa Trời trong các nhà hội của người Do Thái; cũng có Giăng phụ giúp. 6Khi đi khắp đảo cho đến Pa-phô, tại đây họ gặp một thuật sĩ là kẻ tiên tri giả người Do Thái tên Ba-giê-xu; 7người nầy đang ở với tổng đốc Sê-giút Phao-lút, là một người khôn ngoan. Tổng đốc sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, vì ông muốn nghe đạo Đức Chúa Trời. 8Nhưng thuật sĩ ấy, tên Hi Lạp là Ê-ly-ma, chống đối hai ông, tìm mọi cách ngăn cản tổng đốc tin Chúa. 9Bấy giờ, Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, nhìn thẳng vào tên thuật sĩ ấy và nói: 10“Ngươi là con cái của ma quỷ, kẻ thù của mọi điều công chính, đầy xảo trá và độc ác! Ngươi cứ bẻ cong đường ngay thẳng của Chúa mãi sao? 11Nầy, bây giờ tay Chúa trừng phạt ngươi; ngươi sẽ bị mù, không thấy mặt trời trong một thời gian.” Lập tức, sự mù lòa, tối tăm giáng trên Ê-ly-ma; anh ta đi quờ quạng, tìm người nắm tay dắt mình đi. 12Quan tổng đốc thấy sự việc xảy ra thì tin, vì ông kinh ngạc về đạo lý của Chúa.

Bài giảng của Phao-lô tại An-ti-ốt xứ Pi-si-đi

13Phao-lô và các bạn đồng hành từ Pa-phô đáp tàu đến Pẹt-giê trong xứ Pam-phi-ly. Nhưng Giăng lìa họ, trở về Giê-ru-sa-lem. 14Từ Pẹt-giê họ tiếp tục đi đến An-ti-ốt xứ Pi-si-đi. Đến ngày sa-bát, họ vào ngồi trong nhà hội. 15Sau khi đọc sách luật pháp và tiên tri, các vị lãnh đạo nhà hội sai người nói với họ: “Thưa anh em, nếu có lời nào khích lệ dân chúng, xin hãy nói.” 16Phao-lô đứng dậy, lấy tay ra hiệu rồi nói: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên và những người kính sợ Đức Chúa Trời, xin hãy nghe đây: 17Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên nầy đã chọn tổ phụ chúng ta, làm cho dân nầy thịnh vượng trong lúc kiều ngụ tại Ai Cập; Ngài dùng cánh tay quyền năng dẫn họ ra khỏi xứ đó. 18Ngài chịu đựng họ khoảng bốn mươi năm trong hoang mạc. 19Khi đã tiêu diệt bảy dân trong đất Ca-na-an, Ngài cho họ làm chủ đất ấy 20trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Ngài lập cho họ các quan xét cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. 21Bấy giờ họ xin một vua, nên Đức Chúa Trời ban cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc bộ tộc Bên-gia-min, cai trị họ trong bốn mươi năm. 22Rồi Ngài bỏ vua đó, lập Đa-vít làm vua. Ngài làm chứng về ông rằng: ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít con trai của Gie-sê, là người Ta hài lòng, người sẽ thi hành mọi ý muốn Ta.’ 23Từ dòng dõi Đa-vít, Đức Chúa Trời đã dấy lên cho Y-sơ-ra-ên một Cứu Chúa, tức là Đức Chúa Jêsus như Ngài đã hứa. 24Trước khi Đức Chúa Jêsus đến, Giăng đã rao giảng báp-têm về sự ăn năn cho cả dân Y-sơ-ra-ên. 25Khi sắp hoàn tất công tác mình, Giăng nói: ‘Các ông tưởng tôi là ai? Tôi không phải là Đấng các ông tưởng đâu, nhưng kìa, có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’
26Thưa anh em là con cháu của dòng dõi Áp-ra-ham, và những người kính sợ Đức Chúa Trời, sứ điệp cứu rỗi nầy được gửi đến cho chính chúng ta. 27Vì dân chúng và các vị lãnh đạo của họ ở Giê-ru-sa-lem không nhận biết Đức Chúa Jêsus, cũng không hiểu các lời tiên tri mà người ta thường đọc mỗi ngày sa-bát. Tuy nhiên, khi kết án Ngài, họ đã làm cho những lời tiên tri ấy được ứng nghiệm. 28Mặc dù chẳng tìm thấy lý do nào để lên án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát giết Ngài. 29Khi họ đã làm ứng nghiệm mọi điều chép về Ngài rồi thì hạ Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong mộ. 30Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết. 31Trong nhiều ngày, Ngài đã hiện ra cho những người theo Ngài từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem; hiện nay họ đều làm chứng về Ngài cho dân chúng. 32Còn chúng tôi thì rao truyền cho anh em Tin Lành mà Đức Chúa Trời đã hứa cho tổ phụ chúng ta 33rằng Ngài đã làm ứng nghiệm lời hứa đó cho chúng ta, là con cháu của họ, bằng cách khiến Đức Chúa Jêsus sống lại, như đã chép trong Thi Thiên thứ hai: ‘Con là Con Ta, ngày nay Ta đã sinh ra Con.’ 34Ngài đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại từ cõi chết, không bao giờ bị rữa nát, như lời Ngài đã phán: ‘Ta sẽ ban cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’ 35Do đó, một Thi Thiên khác cũng có nói: ‘Chúa chẳng cho Đấng Thánh Ngài thấy sự rữa nát.’ 36Thế mà sau khi phục vụ cho mục đích của Đức Chúa Trời trong thời đại mình, vua Đa-vít đã qua đời, được chôn cất bên cạnh các tổ phụ mình và đã thấy sự rữa nát; 37còn Đấng mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại thì chẳng thấy sự rữa nát. 38Vậy, thưa anh em, hãy nhận biết rằng nhờ Đấng đó mà sự tha tội được công bố cho anh em; 39nhờ Ngài, tất cả những người tin đều được xưng công chính về mọi điều mà luật pháp Môi-se không thể xưng công chính được. 40Vì thế, hãy cẩn thận, đừng để mắc phải điều các nhà tiên tri đã nói:
  41‘Nầy kẻ ngạo mạn!
   Hãy kinh hãi và biến mất đi!
  Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc,
   Dù có ai thuật lại, các ngươi cũng chẳng tin!’”
42Khi Phao-lô và Ba-na-ba bước ra, họ thỉnh cầu hai ông tiếp tục giảng luận các lời ấy vào ngày sa-bát sau. 43Khi buổi nhóm đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại bang theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông nói chuyện và khích lệ họ cứ đứng vững trong ân điển của Đức Chúa Trời.
44Ngày sa-bát sau, hầu hết dân trong thành họp lại để nghe lời Chúa. 45Nhưng khi thấy đoàn dân ấy thì những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối lời giảng của Phao-lô và phỉ báng ông. 46Song Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn nói với họ: “Cần phải ưu tiên truyền đạo Đức Chúa Trời cho anh em; nhưng vì anh em đã từ chối, và tự xét mình không xứng đáng nhận sự sống đời đời, nên bây giờ chúng tôi mới quay sang các dân ngoại. 47Vì Chúa có truyền phán với chúng tôi: ‘Ta lập ngươi làm ánh sáng cho các dân, để đem sự cứu rỗi đến tận cùng trái đất.’ ”
48Khi nghe lời nầy, những người ngoại vui mừng, tôn vinh đạo Chúa; những người đã được định cho sự sống đời đời đều tin. 49Đạo Chúa lan tràn khắp miền ấy. 50Nhưng các người Do Thái kích động các phụ nữ sùng đạo thuộc giới thượng lưu và những người lãnh đạo trong thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba và đuổi hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51Hai ông phủi bụi nơi chân để phản đối họ, rồi đi đến I-cô-ni. 52Còn các môn đồ thì được tràn đầy niềm vui và Đức Thánh Linh.

13

Raviei Yiang Sursĩ Rưoh Ba-naba Cớp Salơ

1Tỗp sa‑âm Yê-su tâng vil Anti-ôt bữn máh cũai tang bỗq Yiang Sursĩ cớp bữn cũai canŏ́h atỡng parnai Yiang Sursĩ. Ramứh alới la neq: Ba-naba, Si-mê-ôn (noau dŏq án Ni-yê hỡ), Lusi-ut tễ cruang Si-rên, Mana-en (án la samoât sễm ai puo Hê-rôt yuaq alới bar náq noau rabán parnơi bo alới noâng cacớt), cớp Salơ. 2Bữn muoi tangái bo alới sang toam Yiang Sursĩ cớp ót sana, Raviei Yiang Sursĩ atỡng alới neq: “Anhia pác dŏq miar Ba-naba cớp Salơ yỗn táq máh ranáq cứq ớn alới táq.”
3Moâm alới ót sana cớp câu, chơ alới satoaq atĩ tâng Ba-naba cớp Salơ. Cớp alới ớn bar náq ki pỡq táq ranáq samoât Raviei Yiang Sursĩ ớn alới táq.

Phau-lô Cớp Ba-naba Tâng Cruang Sip-rơ

4Ngkíq Ba-naba cớp Salơ loŏh tễ ki, cớp pỡq chu vil Sê-lusi samoât Raviei Yiang Sursĩ ớn alới. Tễ vil ki alới pỡq na tuoc chu cỗn Sip-rơ. 5Tữ alới toâq pỡ cỗn Sip-rơ, alới sễng tễ tuoc bân vil Sa-lamít. Chơ alới mut tâng dống sang cũai I-sarel tâng vil ki, yoc atỡng parnai o tễ Yiang Sursĩ. Dếh Yang Mac hỡ pỡq cớp alới dŏq chuai alới. 6Vớt ki alới pỡq tadáh chũop nheq cỗn Sip-rơ toau alới toâq pỡ vil Baphô. Tâng vil Baphô alới ramóh manoaq cũai I-sarel ramứh Bayê-su. Án la cũai mo, cớp án la cũai táq nan tang bỗq Yiang Sursĩ. Bayê-su nâi, noau dŏq án Ê-luma hỡ. 7Ê-luma ỡt chuai ranáq yỗn cũai sốt tâng cỗn Sip-rơ, ramứh Sê-yut Phalut. Sê-yut Phalut la cũai rangoaiq lứq, cớp án arô Ba-naba cớp Salơ yoc ễ tamứng parnai Yiang Sursĩ. 8Ma Ê-luma catáng tỡ ễq Sê-yut Phalut tamứng cớp sa‑âm parnai ki. 9Chơ Salơ, noau dŏq ramứh Phau-lô hỡ, án nhêng cloân níc chu Ê-luma. Cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm án. 10Án pai chóq Ê-luma neq: “Mới la cũai dốq ễ cakéq, cớp yoc lứq raphếq rathũ. Mới la con yiang Satan. Mới yoc ễ pupứt ngê tanoang o. Nŏ́q mới tỡ ễq cũai puai ngê tanoang o tễ Yiang Sursĩ? 11Sanua Yiang Sursĩ táq yỗn mới cỡt sũt. Tỡ dáng maléq dũn nŏ́q têq mới hữm loah.”
 Bo ki toâp Ê-luma cỡt sũt. Chơ án chuchơr chuaq cũai ễq noau tếc án.
12Tữ cũai sốt cruang ki hữm ranáq ki, án sâng dớt lứq, cớp án sa‑âm Yê-su Crĩt tê.

Phau-lô Cớp Ba-naba Tâng Vil Anti-ôt Cruang Bi-sadi

13Vớt ki Phau-lô cớp yớu án chỗn tâng tuoc loŏh tễ vil Baphô pỡq chu vil Pêr-ca tâng cruang Bam-phuli. Ỡt tâng vil ki Yang Mac tỡ bữn pỡq noâng cớp alới, ma án chu loah pỡ vil Yaru-salem. 14Chơ Ba-naba cớp Phau-lô loŏh tễ vil Pêr-ca pỡq chu vil Anti-ôt tâng cruang Bi-sadi. Tâng Tangái Rlu alới bar náq mut rôm tâng dống sang tỗp I-sarel tâng vil ki. 15Moâm noau doc tễ phễp rit Môi-se khoiq atỡng tễ mbŏ́q yỗn tỗp I-sarel, cớp doc tễ tâm saráq cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q, alới ca ndỡm dống sang ki pai chóq Ba-naba cớp Phau-lô neq: “Sễm ai ơi! Khân anhia bữn santoiq catoaih atỡng yỗn hếq cỡt rêng achỗn, sễq anhia atỡng yỗn tỗp hếq dáng tê.”
16Ngkíq Phau-lô yuor tayứng cớp avứt atĩ tỡ yỗn alới tabỗq. Chơ án atỡng alới neq: “Nheq tữh sễm ai cũai I-sarel ơi! Cớp nheq náq anhia ca yám noap Yiang Sursĩ tê, sễq anhia tamứng santoiq cứq. 17Yiang Sursĩ nheq tữh cũai I-sarel sang, án toâp khoiq rưoh achúc achiac hái tễ mbŏ́q. Bo alới ỡt tâng cruang Ê-yip-tô, Yiang Sursĩ yỗn alới cỡt rứh clứng lứq. Toâq Yiang Sursĩ yỗn tỗp hái loŏh tễ cruang Ê-yip-tô, ki dũ náq cũai dáng án bữn chớc sốt toâr lứq. 18Tỗp I-sarel ỡt tâng ntốq aiq nheq pỗn chít cumo. Dốq alới tỡ trĩh parnai Yiang Sursĩ, ma noâng Yiang Sursĩ ayooq alới. 19Cớp tâng cruang Cana-an, Yiang Sursĩ pupứt chíq tapul cruang cũai, chơ yỗn tỗp hái ễn bữn ndỡm nheq cutễq tâng cruang ki. 20Ranáq ki cỡt tâng sám pỗn culám sỡng chít cumo. Vớt ki Yiang Sursĩ rưoh cũai dŏq rasữq tỗp I-sarel, toau toâq dỡi Samu-ễl, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ.
21“Moâm ki tỗp I-sarel sễq Yiang Sursĩ yỗn alới bữn puo. Ngkíq Yiang Sursĩ yỗn Salơ cỡt puo alới. Salơ la con samiang Ki-sơ tễ tỗp Ben-yamin, cớp án cỡt puo nheq pỗn chít cumo. 22Vớt ki Yiang Sursĩ táh Salơ, cớp án chóh Davĩt ễn yỗn cỡt puo. Yiang Sursĩ pai tễ Davĩt neq:
  ‘Davĩt, con samiang Yê-sai, bữn muoi mứt cớp cứq.
Ntrớu cứq yoc án táq, án lứq táq aki.’
23“Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq tễ nhũang, án lứq yỗn manoaq tễ tŏ́ng toiq Davĩt toâq chuai amoong cũai I-sarel. Manoaq nâi la Yê-su. 24Bo Yê-su tỡ yũah toâq, Yang khoiq atỡng yỗn máh cũai I-sarel cóq roap batễm, táq tếc alới khoiq ngin lôih lêq cỡt mứt tamái ễn. 25Toâq Yang táq máh ranáq Yiang Sursĩ ớn án khoiq cheq ễ moâm chơ, án pai neq: ‘Cứq la tỡ cỡn án ca anhia ngcuang. Ma ntun nâi, án ca anhia ngcuang lứq toâq. Cứq la tỡ bữn pĩeiq dếh leh cansái cỡp tễ ayững án, yuaq cứq bữn chớc cớt-cớt lứq.’
26“Sễm ai ơi! Hái ca tễ tŏ́ng toiq A-praham, cớp máh anhia ca yám noap Yiang Sursĩ, Yiang Sursĩ lứq yỗn hái bữn parnai án, dŏq hái noap án têq chuai amoong cũai. 27Cũai proai tâng vil Yaru-salem cớp máh cũai sốt alới hỡ, alới tỡ bữn dáng Yê-su la Con Yiang Sursĩ. Cu Tangái Rlu tâng dống sang, alới doc tễ tâm saráq cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q, mŏ alới tỡ bữn dáng ntrớu tễ máh ŏ́c tâng tâm saráq ki. Ma toâq alới cachĩt Yê-su, alới táq yỗn cỡt rapĩeiq samoât cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq atỡng. 28Máh cũai tâng vil Yaru-salem chuaq ralíh ễ cachĩt Yê-su, ma alới tỡ ramóh muoi ŏ́c ntrớu têq cachĩt án. Ma noâng alới sễq tễ Phi-lat yỗn án cachĩt Yê-su. 29Toâq alới khoiq táq moâm nheq samoât cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq chĩc tễ mbŏ́q tễ Yê-su, chơ alới alíh asễng Yê-su tễ aluang sangcáng, cớp dững tứp án tâng ping. 30Ma Yiang Sursĩ yỗn Yê-su tamoong loah tễ cuchĩt. 31Chơ án ỡt clữi muoi casâi cớp alới ca khoiq puai án tễ cruang Cali-lê chu vil Yaru-salem. Sanua, tỗp nâi pỡq atỡng cũai I-sarel ca tỡ yũah dáng tễ ranáq Yê-su táq. 32-33Ngkíq hếq toâq atỡng parnai o nâi yỗn anhia dáng tê, la parnai Yiang Sursĩ khoiq par‑ữq cớp achúc achiac hái tễ mbŏ́q. Toâq Yiang Sursĩ yỗn Yê-su tamoong loah, án táq rapĩeiq máh ŏ́c án khoiq ữq cớp achúc achiac hái. Yiang Sursĩ khoiq atỡng máh ŏ́c nâi tâng pún bar tâm saráq Ũat Khễn. Yiang Sursĩ pai tễ Yê-su neq:
  ‘Mới la Con cứq.
   Tangái nâi cứq lứq cỡt Mpoaq mới.’
34“Cớp muoi ntốq canŏ́h ễn tâng tâm saráq Yiang Sursĩ, án pai tễ Yê-su neq:
  ‘Cứq lứq yỗn mới bữn máh ŏ́c bốn cứq khoiq ữq cớp Davĩt tễ mbŏ́q chơ.’
35“Cớp bữn ntốq canŏ́h ễn tâng tâm saráq Ũat Khễn, Davĩt pai neq:
‘Anhia tỡ yỗn án ca bráh o lứq cỡt abuoiq.’
36“Bo Davĩt noâng tamoong án táq máh ranáq Yiang Sursĩ ớn án táq. Ma toâq án cuchĩt, noau tứp án tâng ping achúc achiac án tê. Tỗ án cỡt abuoiq. 37Ma Yê-su, Yiang Sursĩ yỗn án tamoong loah, cớp tỗ án tỡ bữn abuoiq ntrớu. 38-39Ngkíq, sễm ai ơi, cứq yoc anhia dáng samoât lứq, ống manoaq Yê-su toâp têq táh lôih anhia. Máh phễp rit Môi-se yỗn anhia, tỡ têq yỗn anhia cỡt tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. Ma cũai aléq sa‑âm Yê-su, cũai ki lứq cỡt tanoang o yáng moat Yiang Sursĩ. 40Ngkíq anhia nhêng o, dŏq anhia têq viaq tễ ramứh túh coat cũai tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq pai tễ mbŏ́q neq:
  41‘Máh anhia ca ayê ra‑ac parnai Yiang Sursĩ,
   cóq anhia tamứng yỗn samoât.
  Cóq anhia sâng croŏq lứq,
   cớp cóq anhia cuchĩt chíq,
  yuaq cứq ễ táq ranáq tâng dỡi anhia ca anhia tỡ bữn noap,
tam noau atỡng anhia chơ tễ ŏ́c ki.’”
42Tữ Phau-lô cớp Ba-naba loŏh tễ dống sang ki, bữn cũai sễq alới atỡng loah santoiq ki toâq Tangái Rlu ntun ễn. 43Moâm alới rôm, alới miar chu. Ma bữn sa‑ữi náq tễ tỗp I-sarel cớp tễ tỗp canŏ́h ca puai phễp rit I-sarel, alới puai Phau-lô cớp Ba-naba. Ngkíq Phau-lô cớp Ba-naba táq ntỡng cớp alới, cớp patâp alới chỗi táh máh ŏ́c Yiang Sursĩ khoiq chuai miat alới.
44Toâq Tangái Rlu ntun ễn, mán nheq tữh cũai tễ vil ki pỡq rôm yoc ễ tamứng parnai Yiang Sursĩ. 45Tữ cũai I-sarel hữm clứng lứq cũai rôm, alới sâng ũan, yuaq alới tỡ ễq cũai tamứng parnai Phau-lô. Chơ alới acrieiq Phau-lô. 46Ma Phau-lô cớp Ba-naba atỡng clŏ́q lứq ễn neq: “Cóq hếq atỡng yỗn anhia cũai I-sarel tamứng parnai Yiang Sursĩ nhũang tễ cũai canŏ́h. Ma anhia tỡ ễq tamứng parnai nâi, samoât riang anhia tỡ ễq tamoong mantái. Ngkíq sanua hếq pỡq atỡng cũai tỡ cỡn cũai I-sarel ễn. 47Yiang Sursĩ toâp ớn hếq táq ngkíq, cớp án pai neq:
  ‘Cứq chóh anhia yỗn cỡt samoât ŏ́c poang yỗn cũai tỡ cỡn cũai I-sarel,
dŏq nheq tữh cũai pưn paloŏng cutrúq nâi bữn dáng cứq yoc ễ chuai amoong alới.’”
48Tữ cũai tỡ cỡn cũai I-sarel sâng parnai ki, alới sâng bũi hỡr lứq, cớp alới khễn parnai Yiang Sursĩ. Máh cũai ca Yiang Sursĩ arô yỗn tamoong mantái, lứq alới sa‑âm parnai ki.
49Ngkíq parnai Yiang Sursĩ cỡt parhan la‑ữt la‑ữi chũop máh cruang ki. 50Ma cũai I-sarel, pỡq sasrúc chóq máh cũai sốt tâng vil ki cớp chóq máh cũai ayoaq ca sang toam Yiang Sursĩ. Cũai ayoaq ki, aléq la yám noap lứq alới. Ngkíq máh cũai I-sarel tuih Phau-lô cớp Ba-naba yỗn loŏh chíq tễ cruang cutễq alới. 51Ma Phau-lô cớp Ba-naba trutrếh phốn tễ ayững, táq tếc cũai tâng vil ki tỡ ễq tamứng alới. Chơ alới pỡq chu vil I-cuni ễn. 52Ma máh cũai khoiq sa‑âm tâng vil Anti-ôt, alới sâng bũi lứq, cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm alới.