7

Lời giảng của Ê-tiên

1 Thầy cả thượng phẩm bèn hỏi Ê-tiên rằng: Có phải thật như vậy chăng? 2 Ê-tiên trả lời rằng: Hỡi các anh, các cha, xin nghe lời tôi! Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng tổ chúng ta là Áp-ra-ham, khi người còn ở tại Mê-sô-bô-ta-mi, chưa đến ở tại Cha-ran, 3 mà phán rằng: Hãy ra khỏi quê hương và bà con ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho. 4 Bấy giờ người ra khỏi xứ Canh-đê, rồi đến thành Cha-ran. Từ đó, lúc cha người qua đời rồi, Đức Chúa Trời khiến người từ nơi đó qua xứ các ông hiện đương ở. 5 Ngài chẳng ban cho người sản nghiệp gì trong xứ nầy, dầu một thẻo đất lọt bàn chân cũng không, nhưng Ngài hứa ban xứ nầy làm kỉ vật cho người và dòng dõi người nữa, dẫu bấy giờ người chưa có con cái mặc lòng. 6 Đức Chúa Trời phán như vầy: Dòng dõi ngươi sẽ ở ngụ nơi đất khách, người ta sẽ bắt chúng nó làm tôi và hà hiếp trong bốn trăm năm. 7 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nhưng ta sẽ đoán xét dân đã bắt chúng nó làm tôi, kế đó, chúng nó sẽ ra khỏi, và thờ phượng ta trong nơi nầy. 8 Đoạn, Đức Chúa Trời ban cho người sự giao ước về phép cắt bì. Ấy vậy, khi Áp-ra-ham đã sanh một con trai là Y-sác, thì làm phép cắt bì cho, trong ngày thứ tám; Y-sác làm phép cắt bì cho Gia-cốp, và Gia-cốp làm phép ấy cho mười hai tổ phụ.
9 Mười tổ phụ ghen ghét Giô-sép, nên bán qua xứ Ê-díp-tô; nhưng Đức Chúa Trời ở cùng người. 10 Ngài giải cứu người khỏi cảnh khó khăn, và cho đầy ơn và trí trước mặt Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, vua ấy lập người làm tể tướng cai quản xứ Ê-díp-tô và cả nhà vua nữa. 11 Bấy giờ, xảy có cơn đói kém trong cả xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an; sự túng ngặt lớn lắm, tổ phụ chúng ta chẳng tìm được đồ ăn. 12 Gia-cốp nghe bên Ê-díp-tô có lúa mì, thì sai tổ phụ ta qua đó lần thứ nhứt. 13 Đến lần thứ hai, anh em Giô-sép nhận biết người, và Pha-ra-ôn mới biết dòng họ người. 14 Giô-sép bèn sai rước Gia-cốp là cha mình và cả nhà, cộng là bảy mươi lăm người. 15 Vậy, Gia-cốp xuống xứ Ê-díp-tô, rồi chết tại đó, và tổ phụ chúng ta cũng vậy; 16 sau được đem về Si-chem, chôn nơi mộ mà Áp-ra-ham đã lấy bạc mua của con cháu Hê-mô quê ở Si-chem. 17 Nhưng, gần đến kỳ phải ứng nghiệm lời hứa Đức Chúa Trời đã thề với Áp-ra-ham, dân cứ sanh sản và thêm nhiều lên trong xứ Ê-díp-tô, 18 cho đến khi trong xứ đó có một vua khác dấy lên chẳng nhìn biết Giô-sép. 19 Vua nầy dùng mưu hại dòng giống và hà hiếp tổ phụ chúng ta, ép phải bỏ con mới sanh, hầu cho sống chẳng được.
20 Trong lúc đó, Môi-se sanh ra; người xinh tốt khác thường, được nuôi trong ba tháng tại nhà cha mình. 21 Khi người bị bỏ, thì con gái Pha-ra-ôn vớt lấy, nuôi làm con mình. 22 Môi-se được học cả sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô; lời nói và việc làm đều có tài năng. 23 Nhưng lúc người được đầy bốn mươi tuổi rồi, trong lòng nhớ đến, muốn đi thăm anh em mình là con cái Y-sơ-ra-ên. 24 Môi-se thấy có người hà hiếp một người trong đám họ, nên binh vực kẻ bị hà hiếp và đánh người Ê-díp-tô để báo thù cho. 25 Người ngờ anh em mình chắc hiểu rằng Đức Chúa Trời dùng tay mình giải cứu họ; nhưng họ chẳng hiểu. 26 Đến ngày sau, chúng đang đánh lộn với nhau, thì người đến gần mà giải hòa, rằng: Hỡi các ngươi, đã là anh em, sao lại làm hại nhau vậy? 27 Kẻ đang ức hiếp người lân cận mình xô Môi-se ra, mà rằng: Ai đã lập ngươi lên làm quan cai trị và quan xử đoán chúng ta? 28 Há ngươi muốn giết ta như hôm qua đã giết người Ê-díp-tô sao? 29 Môi-se vừa nghe lời đó thì trốn đi ở trong xứ Ma-đi-an, nơi đó người sanh được hai con trai. 30 Cách bốn mươi năm, một thiên sứ hiện ra cùng người, tại đồng vắng núi Si-na-i, trong ngọn lửa nơi bụi gai đương cháy. 31 Môi-se thấy vậy, lấy làm lạ về sự hiện ra đó, đang áp lại để xem cho gần hơn, thì nghe tiếng Chúa phán rằng: 32 Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác và của Gia-cốp. Môi-se run sợ, chẳng dám nhìn xem. 33 Chúa bèn phán rằng: Hãy cởi giày ở chân ngươi ra; vì chỗ mà ngươi đứng đó là một nơi đất thánh. 34 Ta đã đoái xem và thấy cảnh khó khăn của dân ta trong xứ Ê-díp-tô, ta đã nghe tiếng than thở của chúng nó, và xuống đặng giải cứu. Bây giờ hãy đến, đặng ta sai ngươi qua xứ Ê-díp-tô.
35 Môi-se nầy là người họ đã bỏ ra, và rằng: Ai đã lập ngươi lên làm quan cai trị và quan đoán xét chúng ta? Ấy là người mà Đức Chúa Trời đã sai làm quan cai trị và đấng giải cứu, cậy tay một thiên sứ đã hiện ra với người trong bụi gai. 36 Ấy là người đã đem họ ra khỏi, làm những dấu kỳ phép lạ trong xứ Ê-díp-tô, trên Biển Đỏ, và nơi đồng vắng trong bốn mươi năm. 37 Ấy là Môi-se nầy đã nói cùng con cái Y-sơ-ra-ên rằng: Đức Chúa Trời sẽ dấy lên trong hàng anh em các ngươi một đấng tiên tri giống như ta. 38 Ấy là người, trong dân hội tại nơi đồng vắng, đã ở với thiên sứ, là đấng phán cùng người trên núi Si-na-i, và với tổ phụ chúng ta, người lại nhận lấy những lời sự sống đặng trao lại cho các ngươi. 39 Ấy là người mà tổ phụ chúng ta không chịu vâng lời, đã bỏ người đặng nghiêng lòng về xứ Ê-díp-tô, 40 và nói với A-rôn rằng: Hãy làm các thần đi trước chúng ta; vì về phần Môi-se nầy, là người đã dẫn chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, chẳng biết có điều chi xảy đến cho người rồi. 41 Trong những ngày đó, họ đúc một tượng bò con, dâng tế lễ cho tượng và vui mừng về việc tay mình làm nên. 42 Đức Chúa Trời bèn lìa bỏ họ, phú họ thờ lạy cơ binh trên trời, như có chép trong sách các đấng tiên tri rằng:
 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, vậy có phải các ngươi từng dâng con sinh và của lễ cho ta,
 Trong bốn mươi năm ở nơi đồng vắng,
43 khi các ngươi khiêng nhà trại của Mo-lóc
 Và ngôi sao của thần Rom-phan,
 Tức là những hình tượng mà các ngươi làm ra để thờ lạy chăng?
 Ta cũng sẽ đày các ngươi qua bên kia Ba-by-lôn.
44 Đền tạm chứng cớ vốn ở giữa tổ phụ chúng ta trong đồng vắng, như Chúa đã truyền lịnh cho Môi-se phải làm y theo kiểu mẫu người đã thấy. 45 Tổ phụ chúng ta đã nhận lấy đền tạm ấy, rồi đồng đi với Giô-suê đem vào xứ họ đã chiếm lấy của các dân mà Đức Chúa Trời đã đuổi khỏi trước mặt họ; đền tạm cứ ở đó cho đến đời vua Đa-vít, 46 là người được ơn trước mặt Đức Chúa Trời, và xin ban một chỗ ở cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp. 47 Kế đó, vua Sa-lô-môn cất cho Chúa một cái nhà. 48 Nhưng Đấng Rất Cao chẳng ở trong nhà bởi tay người ta làm ra, như đấng tiên tri đã nói:
49 Chúa phán: Trời là ngai ta,
 Đất là bệ chân ta.
 Nào có nhà nào các ngươi cất cho ta,
 Có nơi nào cho ta yên nghỉ chăng?
50 Há chẳng phải tay ta đã dựng nên mọi vật nầy chăng?
51 Hỡi những người cứng cổ, lòng và tai chẳng cắt bì kia! Các ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài; tổ phụ các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng thế ấy! 52 Há có đấng tiên tri nào mà tổ phụ các ngươi chẳng bắt bớ ư? Họ cũng đã giết những người nói tiên tri về sự đến của Đấng Công bình; và hiện bây giờ chính các ngươi lại đã nộp và giết Đấng đó; 53 các ngươi đã nhận luật pháp truyền bởi các thiên sứ, nhưng không giữ lấy!…

Sự chết của Ê-tiên

54 Chúng nghe những lời đó, thì giận trong lòng, và nghiến răng với Ê-tiên. 55 Nhưng người, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời; 56 thì người nói rằng: Kìa, ta thấy các từng trời mở ra, và con người đứng bên hữu Đức Chúa Trời. 57 Bấy giờ, chúng kêu lớn tiếng lên, bịt lỗ tai lại, cùng nhau chạy a lại, 58 kéo người ra ngoài thành, rồi ném đá người. Các kẻ làm chứng lấy áo xống mình để nơi chân một người trẻ tuổi kia tên là Sau-lơ. 59 Chúng đang ném đá, thì Ê-tiên cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi. 60 Đoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ.

7

Xatefanaus Hais Txog Txheej Thaum

1Tus Povthawj Hlob nug Xatefanaus hais tias, “Koj tau hais li lawv hais tiag los?”
2Xatefanaus teb hais tias, “Nej cov uas ua kwv ua tij thiab ua txiv, nej cia li mloog kuv hais! Thaum peb yawgkoob Anplahas tseem nyob tim tebchaws Mexuputamias uas nws tseem tsis tau khiav mus nyob pem lub nroog Halas, Vajtswv lub tshwjchim uas ci ntsa iab tau tshwm los rau nws pom. 3Thiab hais rau nws hais tias, ‘Koj cia li tso koj tej kwvtij tseg thiab tawm hauv koj lub tebchaws no mus rau ib lub tebchaws uas kuv yuav qhia rau koj.’ 4Anplahas txawm tawm hauv tebchaws Khade-as mus rau pem lub nroog Halas. Thaum Anplahas txiv tuag lawm, Vajtswv hais kom Anplahas tsiv los nyob hauv lub tebchaws uas nimno nej nyob no. 5Thaum ntawd Vajtswv tseem tsis tau pub ib thaj av luaj xibteg rau Anplahas li, tiamsis Vajtswv coglus tseg hais tias Vajtswv yuav muab lub tebchaws ntawd rau nws thiab nws cov xeebntxwv ua lawv tug mus li. Thaum Vajtswv coglus rau Anplahas ntawd, Anplahas tseem tsis tau muaj menyuam. 6Vajtswv hais rau Anplahas hais tias, ‘Koj cov xeebntxwv yuav mus nrog lwm haivneeg nyob hauv luag lub tebchaws lawv yuav mus ua luag qhev, thiab luag yuav tsimtxom lawv plaub puas xyoo. 7Tiamsis kuv yuav rau txim rau cov neeg uas tsimtxom koj cov xeebntxwv; tom qab ntawd lawv yuav tawm hauv lub tebchaws ntawd los pehawm kuv ntawm no.’ 8Vajtswv muab txoj kevcai txiav rau Anplahas ua lub cim qhia hais tias Vajtswv coglus tseg rau Vajtswv haivneeg. Thaum yug Ixaj tau yim hnub lawm, Anplahas txawm muab Ixaj ua kevcai txiav. Ixaj muab Yakhauj ua kevcai txiav, thiab Yakhauj muab nws kaum ob tug tub uas yog peb haivneeg cov yawgkoob uas muaj koob meej nyob nto hmoo los ua kevcai txiav.
9“Yakhauj cov tub ntawd muaj lub siab khib rau lawv tus kwv Yauxej, lawv thiaj muab Yauxej muag mus ua qhev rau nram tebchaws Iziv. Tiamsis Vajtswv nrog nraim Yauxej 10thiab Vajtswv pab Yauxej dim Yauxej tej kev txomnyem. Thaum uas Yauxej mus cuag Falaus uas yog cov Iziv tus vajntxwv, Vajtswv pub tswvyim rau Yauxej ua tau haum Falaus siab, Falaus thiaj tsa Yauxej ua tus saib Falaus lub tebchaws thiab saib txhua yam hauv Falaus lub loog. 11Tom qab ntawd txawm muaj kev tshaib plab thoob plaws tebchaws Iziv thiab tebchaws Kana-as, sawvdaws txomnyem kawg li. Peb cov yawgkoob nrhiav tsis tau noj. 12Yakhauj hnov hais tias nyob nram tebchaws Iziv muaj mov, ces nws txawm txib peb cov yawgkoob mus nram tebchaws Iziv; zaum ntawd yog thawj zaug uas lawv mus nrad. 13Thaum lawv rov mus zaum ob, Yauxej thiaj qhia rau nws cov tijlaug paub hais tias nws yog lawv tus kwv thiab qhia nws tsev neeg rau Falaus paub. 14Yauxej txib neeg mus tos Yakhauj tus uas yog nws txiv, thiab kom Yakhauj coj tagnrho nws tsev neeg uas muaj xya caum tsib leeg los nyob hauv tebchaws Iziv. 15Yakhauj txawm mus nyob nram tebchaws Iziv. Yakhauj thiab nws cov tub puavleej tuag tas rau nrad. 16Lawv cov tub ki txawm kwv lawv rov los faus rau ntawm lub toj ntxas uas nyob ntawm Sekhees. Lub toj ntxas ntawd yog lub uas thaum ub Anplahas muab nyiaj yuav ntawm cov neeg Hamaus los.
17“Thaum yuav txog lub sijhawm uas Vajtswv ua raws li Vajtswv tau coglus tseg rau Anplahas lawm, thaum ntawd peb haivneeg uas nyob hauv tebchaws Iziv huamvam coob heev. 18Thaum kawg muaj dua ib tug vajntxwv los kav tebchaws Iziv. Tus vajntxwv ntawd tsis paub Yauxej. 19Tus vajntxwv ntawd ua phem rau peb haivneeg, tsimtxom peb cov yawgkoob tsis pub lawv tu lawv tej menyuam thiab yuam kom lawv muab lawv tej menyuam mos povtseg kom tuag mus. 20Thaum ntawd yog lub sijhawm yug Mauxes, Mauxes yog ib tug metub uas zoo nraug heev. Nws niam nws txiv tu nws hauv tsev tau peb lub hlis, 21thiab thaum nkawd coj Mauxes mus tso rau nram ntug dej, Falaus tus ntxhais txawm coj mus tu thiab saws ua nws tub. 22Mauxes kawm paub cov neeg Iziv tej kev txawj kev ntse huv tibsi. Mauxes yog ib tug txawj ntse heev; nws ua yam twg los ua tau.
23“Thaum Mauxes hnubnyoog muaj plaub caug xyoo, nws mus ncig saib nws cov kwvtij Yixalayees. 24Nws pom ib tug neeg Iziv tsimtxom ib tug neeg Yixalayees, nws txawm muab tus neeg Iziv ntawd tua povtseg; nws ua li ntawd pauj qhov uas tus neeg Iziv tsimtxom tus Yixalayees. ( 25Mauxes ua li ntawd nws xav hais tias nyaj nws haivneeg yuav paub hais tias Vajtswv xaiv nws los pab lawv kom lawv dim, tiamsis lawv tsis paub.) 26Hnub tom qab nws pom ob tug neeg Yixalayees tabtom sib ntaus, nws txawm cheem nkawd hais tias, ‘Neb twb yog kwvtij; ua li cas neb tseem yuav sib ntaus ua dabtsi?’ 27Tiamsis tus uas ua txhaum txawm muab Mauxes thawb ntiag rau ibcag, thiab nws hais rau Mauxes hais tias, ‘Leejtwg tsa koj ua tus saib thiab txiav txim rau peb? 28Koj yuav muab kuv tua ib yam li nag hmo koj tua tus neeg Iziv thiab los?’ 29Thaum Mauxes hnov li ntawd, nws txawm khiav tawm hauv tebchaws Iziv mus nyob tim tebchaws Midias. Nws nyob hauv lub tebchaws ntawd, nws tau ob tug tub.
30“Tom qab plaub caug xyoo lawm, muaj ib tug timtswv ceebtsheej los tshwm rau Mauxes hauv cov nplaim taws ntawm ib tsob ntoo rau Mauxes pom tom tiaj suabpuam uas ze lub Roob Xinais. 31Thaum Mauxes pom li ntawd, Mauxes xav tsis thoob li, nws yuav txav mus saib ze ze, tiamsis nws hnov tus Tswv lub suab hais rau nws hais tias, 32‘Kuv yog koj cov yawgkoob tug Vajtswv, kuv yog Anplahas, Ixaj thiab Yakhauj tus Vajtswv.’ Mauxes hnov li ntawd, Mauxes ntshai ua ibce tshee hnyo thiab tsa tsis taus qhovmuag saib li. 33Tiamsis tus Tswv hais rau Mauxes hais tias, ‘Koj cia li hle koj nkawm khau, rau qhov, qhov chaw uas koj sawv ntawm ko yog qhov chaw dawbhuv. 34Kuv twb pom kuv haivneeg raug kev tsimtxom nram tebchaws Iziv, thiab kuv twb hnov lawv lub suab quaj lawm, kuv thiaj los pab kom lawv dim tej kev tsimtxom ntawd. Koj cia li los ntawm no, kuv yuav txib koj mus nram tebchaws Iziv.’
35“Tus Mauxes no twb yog tus uas cov Yixalayees tsis lees yuav, thiab lawv hais rau nws hais tias, ‘Leejtwg tsa koj ua tus saib thiab txiav txim rau peb?’ Vajtswv kom tus timtswv ceebtsheej los tshwm hauv tsob ntoo uas muaj nplaim taws rau Mauxes pom ua tus pab Mauxes tus uas Vajtswv txib mus ua tus saib thiab pab lawv kom dim. 36Thaum Mauxes coj cov Yixalayees tawm hauv tebchaws Iziv, nws ua tej txujci tseemceeb uas xav tsis thoob hauv tebchaws Iziv, ntawm ntug dej Hiavtxwv Liab thiab plaub caug xyoo uas lawv nyob tom tiaj suabpuam. 37Mauxes yog tus uas hais rau cov Yixalayees hais tias, ‘Vajtswv yuav txib ib tug hauv nej cov ua tus uas cev Vajtswv lus rau nej ib yam li nws tau tsa kuv lawm.’ 38Mauxes yog tus uas nrog cov Yixalayees nyob tom tiaj suabpuam; Mauxes nrog peb cov yawgkoob ua ke thiab nrog tus timtswv ceebtsheej uas los hais rau Mauxes saum Roob Xinais nyob. Thiab Mauxes yog tus uas cev Vajtswv lus rau peb.
39“Tiamsis peb cov yawgkoob tsis mloog nws lus; lawv muab nws thawb ntiag rau ibcag, thiab lawv xav rov qab mus nyob nram tebchaws Iziv. 40Lawv thiaj hais rau Aloos hais tias, ‘Koj cia li nchuav ib co mlom coj peb kev mus. Peb tsis paub hais tias xyov muaj xwm dabtsi rau Mauxes tus uas coj peb kev tawm hauv tebchaws Iziv los lawm.’ 41Ces thaum ntawd lawv txawm nchuav tau ib tug mlom zoo li ib tug nyuj; lawv muab tsiaj tua hlawv fij rau tus mlom ntawd, thiab lawv ua rooj noj rooj haus hawm tus mlom uas lawv txhais tes puab. 42Vim li ntawd, Vajtswv thiaj tso lawv tseg thiab cia lawv pe tej hnubqub uas nyob saum nruab ntug, raws li cov cev Vajtswv lus sau tseg lawm hais tias,
  ‘Cov Yixalayees! Plaub caug xyoo
   uas nej nyob tom tiaj suabpuam,
  tej tsiaj uas nej muab tua fij ntawd
   tsis yog nej tua fij rau kuv.
  43Nej kwv tus vajtswv Maulej lub tsev ntaub
  thiab coj tus mlom hnubqub Lefas
   uas yog nej tus vajtswv;
  tej ntawd yog tej uas nej txhais tes puab rau nej pe.
  Vim nej ua li ntawd, kuv yuav ntiab
   kom nej khiav dhau lub nroog Npanpiloos mus.’
44“Thaum peb cov yawgkoob tseem nyob tom tiaj suabpuam, lawv muaj lub Tsevntaub uas yog qhov chaw nrog Vajtswv sib coglus. Lub Tsevntaub ntawd lawv ua raws li Vajtswv hais lossis ua raws li tus qauv uas Vajtswv muab qhia rau Mauxes. 45Tom qab ntawd, peb cov yawgkoob kwv lub Tsevntaub uas peb cov yawgsuab muab rau lawv nrog Yausuas mus txeeb tau lwm haivneeg lub tebchaws. Lawv mus txeeb tau twb yog Vajtswv ntiab cov neeg ntawd tawm, cia peb cov yawgkoob los nyob. Lub Tsevntaub nyob hauv lub tebchaws ntawd los txog rau Daviv tiam. 46Daviv ua haum Vajtswv siab, Daviv thiaj thov Vajtswv kom cia Daviv ua ib lub Tuamtsev rau Yakhauj tus Vajtswv nyob. 47Tiamsis thaum kawg Xalumoos yog tus uas ua lub Tuamtsev ntawd.
48“Tiamsis Vajtswv tus uas muaj hwjchim loj kawg nkaus tsis nyob hauv lub tsev uas neeg txhais tes ua; raws li tus cev Vajtswv lus hais tias,
  49‘Tus Tswv hais tias, ntuj ceebtsheej
   yog kuv lub zwmtxwv,
  thiab ntiajteb yog kuv lub chaw tiag taw.
  Nej yuav ua lub tsev luaj li cas rau kuv nyob?
  Thiab yuav ua kuv lub chaw so rau qhov twg?
  50Tsis yog kuv txhais tes tsim ib puas tsav yam huv tibsi los?’ ”
51Xatefanaus hais ntxiv hais tias, “Cov neeg tawv ncauj, ua li cas nej tsis hnov Vajtswv Txojlus li! Nej niaj zaug tawmtsam Vaj Ntsujplig tus Dawbhuv ib yam li nej cov yawgkoob! 52Tsis muaj ib tug cev Vajtswv lus uas nej cov yawgkoob tsis tau tsimtxom li. Lawv tua cov cev Vajtswv lus uas xub qhia ua ntej lawm hais tias Vajtswv tus tubtxib uas ncaj ncees yuav los. Nws yog tus uas nej muab rau cov nomtswv, thiab lawv muab nws tua povtseg ntag. 53Txawm yog Vajtswv tus timtswv muab Vajtswv txoj kevcai rau nej los nej tsis ua raws li tej kevcai ntawd!”

Muab Pobzeb Ntaus Xatefanaus

54Thaum cov Yudais tej nomtswv hnov Xatefanaus hais li ntawd, lawv npautaws thiab chim heev; lawv zim hniav zog rau Xatefanaus. 55Tiamsis Xatefanaus puv npo Vaj Ntsujplig tus Dawbhuv, nws tsa qhovmuag saib saum ntuj; nws pom Vajtswv lub tshwjchim uas ci ntsa iab pom Yexus sawv ntawm Vajtswv sab xis. 56Xatefanaus hais rau lawv hais tias, “Nej saib! Kuv pom ntuj ceebtsheej qhib thiab pom Neeg Leej Tub sawv ntawm Vajtswv sab xis!”
57Thaum lawv hnov Xatefanaus hais li ntawd, lawv txawm qw nrov nrov thiab muab tes pos qhovntsej thiab khiav mus rau ntawm Xatefanaus, 58lawv muab Xatefanaus thawb ntiag rau sab nraum ntug nroog thiab muab pobzeb ntaus nws. Cov timkhawv uas nkaug Xatefanaus txawm hle lawv tej tsho tso rau ntawm ib tug tub hluas uas hu ua Xaulus kotaw. 59Thaum lawv tabtom muab pobzeb ntaus Xatefanaus, Xatefanaus thov Vajtswv hais tias, “Tswv Yexus, thov koj coj kuv tus ntsujplig mus nrog koj nyob!” 60Xatefanaus txhos caug ntua thiab hais nrov nrov hais tias, “Tus Tswv! Thov koj zam txim rau lawv.” Thaum nws hais li ntawd tas, ces nws txawm tu siav nrho lawm.