10

Các thần tượng và Đức Giê-hô-va. – Sự hủy diệt Giê-ru-sa-lem

1 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va phán cho ngươi. 2 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ tập theo tục của các dân ngoại, chớ sợ các dấu trên trời, mặc dầu dân ngoại nghi sợ các dấu ấy. 3 Vì thói quen của các dân ấy chỉ là hư không. Người ta đốn cây trong rừng, tay thợ lấy búa mà đẽo; 4 rồi lấy bạc vàng mà trang sức; dùng búa mà đóng đinh vào, đặng khỏi lung lay. 5 Các thần ấy tiện như hình cây chà là, không biết nói, không biết đi, nên phải khiêng. Đừng sợ các thần ấy, vì không có quyền làm họa hay làm phước.
6 Hỡi Đức Giê-hô-va, chẳng ai giống như Ngài! Ngài là lớn, danh Ngài có sức mạnh lớn lắm. 7 Hỡi Vua các nước! Ai chẳng nên sợ Ngài? Ấy là điều Ngài đáng được. Vì trong những người khôn ngoan của các nước, tỏ ra sự vinh hiển mình, chẳng có ai giống như Ngài. 8 Chúng nó hết thảy đều là u mê khờ dại. Sự dạy dỗ của hình tượng chỉ là gỗ mà thôi. 9 Ấy là bạc dát mỏng vận đến từ Ta-rê-si, và vàng của U-pha, nhờ tay thợ chạm làm ra cùng thợ vàng chế thành; có vải màu xanh màu tím làm áo; ấy cũng là việc của người thợ khéo. 10 Nhưng Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thật; Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, là Vua đời đời. Nhân cơn giận Ngài, đất đều rúng động, các nước không thể chịu được cơn giận Ngài.
11 Các ngươi khá nói cùng họ rằng: Những thần nầy không làm nên các từng trời, cũng không làm nên đất, thì sẽ bị diệt đi khỏi trên đất và khỏi dưới các từng trời.
12 Chính Đức Giê-hô-va đã làm nên đất bởi quyền năng Ngài, đã lập thế gian bởi sự khôn ngoan Ngài, đã giương các từng trời ra bởi sự thông sáng Ngài. 13 Khi Ngài phát ra tiếng, thì có tiếng động lớn của nước trong các từng trời; Ngài làm cho hơi nước từ đầu cùng đất bay lên, làm cho chớp theo mưa dấy lên, kéo gió ra từ trong kho Ngài; 14 người ta đều trở nên u mê khờ dại, thợ vàng xấu hổ vì tượng chạm của mình; vì các tượng đúc chẳng qua là giả dối, chẳng có hơi thở ở trong; 15 chỉ là sự hư vô, chỉ là đồ đánh lừa; đến ngày thăm phạt sẽ bị diệt mất. 16 Sản nghiệp của Gia-cốp thì chẳng giống như vậy; vì Ngài đã tạo nên mọi sự, và Y-sơ-ra-ên là chi phái của cơ nghiệp Ngài. Danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân.
17 Hỡi ngươi là kẻ bị vây, hãy lấy của cải mình lìa khỏi đất nầy. 18 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, lần nầy ta sẽ liệng ra dân của đất nầy, ta sẽ làm khốn chúng nó, cho chúng nó tỉnh biết.
19 Khốn nạn cho tôi vì vết thương tôi! Vít tôi là đau đớn! Nhưng tôi nói: Ấy là sự lo buồn tôi, tôi phải chịu. 20 Trại của tôi bị phá hủy, những dây của tôi đều đứt, con cái tôi bỏ tôi, chúng nó không còn nữa. Tôi không có người để giương trại tôi ra và căng màn tôi. 21 Những kẻ chăn chiên đều ngu dại, chẳng tìm cầu Đức Giê-hô-va. Vì vậy mà chúng nó chẳng được thạnh vượng, và hết thảy những bầy chúng nó bị tan lạc.
22 Nầy, có tiếng đồn ra; có sự ồn ào lớn đến từ miền phương bắc, đặng làm cho các thành của Giu-đa nên hoang vu, nên hang chó rừng.
23 Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình. 24 Hỡi Đức Giê-hô-va, vậy xin hãy sửa trị tôi cách chừng đỗi; xin chớ nhân cơn giận, e rằng Ngài làm cho tôi ra hư không chăng. 25 Xin hãy đổ sự thạnh nộ trên các nước chẳng nhìn biết Ngài, trên các họ hàng chẳng kêu cầu danh Ngài. Vì họ đã nuốt Gia-cốp, và còn nuốt nữa; họ diệt Gia-cốp, làm cho chỗ ở nó thành ra hoang vu.

10

Aê Diê leh anăn Phung Ruh Yang

1Ơ sang Israel, hmư̆ bĕ klei Yêhôwa blŭ kơ ih. 2Snei Yêhôwa lač:
  “Đăm hriăm tui ôh êlan phung găp djuê mnuih,
   kăn huĭ rei tơdah ƀuh klei bi knăl hlăm adiê,
   wăt tơdah phung găp djuê mnuih huĭ hyưt kyua klei anăn.
  3Kyuadah klei bhiăn mưng phung ƀuôn sang jing luar.
   Jing sa kdrêč kyâo arăng druôm leh hlăm kmrơ̆ng,
   leh anăn sa čô mbruă krah leh hŏng sa ƀĕ jông.
  4Phung mnuih luôm kyâo anăn hŏng prăk leh anăn mah;
   diñu pơ̆ng bi kjăp gơ̆ hŏng kmŭt leh anăn msei kđĭn,
   snăn gơ̆ amâo dưi lĕ buh ôh.
  5Rup yang diñu jing msĕ si rup bi huĭ čĭm arăng dưm hlăm đang kmŭn,
   diñu amâo thâo blŭ ôh;
  arăng pŭ diñu kyuadah diñu amâo dưi êbat ôh.
   Đăm huĭ kơ diñu ôh, kyuadah diñu amâo dưi ngă klei jhat ôh,
   kăn diñu dưi ngă klei jăk rei.”

  6Amâo mâo pô mkăn msĕ si ih, Ơ Yêhôwa,
   ih jing prŏng, Anăn ih jing prŏng hŏng klei myang.
  7 Hlei pô amâo srăng huĭ kơ ih ôh,
   Ơ Mtao kơ jih jang phung găp djuê mnuih?
  Kyuadah klei anei jing năng kơ ih.
   Kyuadah ti krah jih jang phung thâo mĭn hlăm phung găp djuê mnuih,
  leh anăn hlăm jih jang ƀuôn ala mtao diñu,
   amâo mâo pô msĕ si ih ôh.
  8Diñu jing mluk mgu;
   rup kyâo krah bi hriăm diñu.
  9Arăng mă ba mơ̆ng ƀuôn Tarsis prăk tia leh,
   leh anăn mah mơ̆ng čar Uphas.
  Diñu jing dŏ mnuih mbruă mkra,
   leh anăn bruă kngan pô tia mah;
  čhiăm ao diñu mâo êa mlăng leh anăn hrah jŭ,
   jih jang dŏ anăn jing dŏ phung mbruă mkra.
  10Ƀiădah Yêhôwa jing Aê Diê sĭt;
   ñu jing Aê Diê hdĭp leh anăn Mtao dôk hlŏng lar.
  Tơdah ñu ngêñ, lăn ala ktư̆ yơ̆ng,
   leh anăn phung găp djuê mnuih amâo dưi tŭ ôh klei ñu ăl.
11“Snei brei ih lač kơ diñu: ‘Phung yang anei amâo tuôm mjing phung adiê leh anăn lăn ala srăng rai tuč mơ̆ng lăn ala leh anăn mơ̆ng ti gŭ phung adiê.’ ”

  12Yêhôwa yơh hrih leh lăn ala hŏng klei myang ñu,
   pô bi kjăp leh lăn ala hŏng klei thâo mĭn ñu,
   leh anăn hŏng klei ñu thâo săng ñu lang phung adiê.
  13Tơdah ñu blŭ mâo msĕ si ênai êa poh yă hlăm phung adiê,
   leh anăn ñu brei êa nguôm đĭ tar ƀar anôk ti lăn ala.
  Ñu brei kmlă mtrang êjai adiê hjan,
   leh anăn ñu brei angĭn thut mơ̆ng hjiê ñu.
  14Grăp čô mnuih jing mluk leh anăn amâo mâo klei thâo săng ôh;
   grăp čô mnuih tia mah mâo klei hêñ kyua rup yang ñu tia leh,
  kyuadah rup yang ñu jing yang amâo sĭt ôh,
   leh anăn digơ̆ amâo thâo bi êwa ôh.
  15Digơ̆ jing hơăi mang, jing bruă klei mplư;
   truh hruê arăng bi kmhal digơ̆, digơ̆ srăng rai tuč.
  16Aê Diê pô pioh kơ phung Yakôp amâo jing msĕ snăn ôh,
   kyuadah ñu jing Pô Hrih leh jih jang mnơ̆ng,
  leh anăn wăt phung Israel, găp djuê ñu dưn ngăn;
   Yêhôwa kơ phung kahan jing anăn ñu.

Klei Bi Rai Čar Yuđa

  17Ơ phung arăng dôk wang čiăng ngă,
   bi kƀĭn bĕ dŏ dô diih,
  18kyuadah snei Yêhôwa lač:
   “Nĕ hruê anei kâo srăng suôt phung mnuih dôk hlăm čar,
  leh anăn kâo srăng bi truh klei knap mñai kơ diñu,
   čiăng kơ arăng mjing diñu mnă.”

  19Knap mñai yơh kơ kâo kyua anôk êka kâo!
   Anôk êka kâo amâo dưi hlao ôh.
  Ƀiădah kâo lač,
   “Anei yơh jing klei ruă kâo,
   leh anăn kâo gĭr tŭ klei anăn.”
  20Sang čhiăm kâo rai leh,
   jih jang klei kă tloh leh;
  phung anak kâo đuĕ leh mơ̆ng kâo, amâo lŏ ƀuh diñu ôh;
   amâo lŏ mâo pô ôh lŏ đru mdơ̆ng sang čhiăm kâo,
   leh anăn đru păng anôk kâo dôk.
  21Kyuadah phung mgăt biăp jing mluk,
   leh anăn amâo êmuh kơ Yêhôwa ôh;
  kyuanăn diñu amâo čăt jing ôh,
   leh anăn jih jang biăp diñu klah đuĕ mdê mdê.
  22Mđing bĕ, sa klei mrâo mrang truh!
   Klei rŭng răng prŏng kbiă hriê mơ̆ng čar dưr
  čiăng brei jih jang ƀuôn čar Yuđa jing ênguôl,
   sa anôk asâo tan dôk.

  23Ơ Yêhôwa, kâo thâo mnuih amâo dưi jing khua kơ ñu pô ôh,
   mnuih amâo dưi gai knhuang ñu êbat ôh.
  24Mkra kâo bĕ, Ơ Yêhôwa, ƀiădah knŏng tui si klei djŏ,
   amâo djŏ ôh hŏng klei ih ăl,
   huĭdah ih bi rai hĕ kâo.
  25Tuh bĕ klei ih ngêñ kơ phung găp djuê mnuih,
   phung amâo thâo kral ih ôh,
  kơ phung ƀuôn sang amâo iêu wah lač kơ anăn ih ôh.
   Kyuadah diñu bi rai leh phung Yakôp,
  diñu bi rai leh yơh digơ̆ jih,
   leh anăn brei anôk digơ̆ dôk jing ênguôl.