23

Sửa phạt những kẻ chăn bất trung và tiên tri giả

1 Đức Giê-hô-va phán: Khốn thay cho những kẻ chăn hủy diệt và làm tan lạc bầy chiên của đồng cỏ ta. 2 Vậy nên, về những kẻ chăn giữ dân Ngài, thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Các ngươi làm tan lạc bầy chiên ta, đã đuổi đi và không thăm nom đến; nầy, ta sẽ thăm phạt các ngươi về những việc dữ mình làm, Đức Giê-hô-va phán vậy. 3 Ta sẽ nhóm những con sót lại của bầy ta, từ các nước mà ta đã đuổi chúng nó đến. Ta sẽ đem chúng nó trở về trong chuồng mình; chúng nó sẽ sanh đẻ thêm nhiều. 4 Ta sẽ lập lên những kẻ chăn nuôi chúng nó; thì sẽ chẳng sợ chẳng hãi nữa, và không thiếu một con nào, Đức Giê-hô-va phán vậy.
5 Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, bấy giờ ta sẽ dấy lên cho Đa-vít một Nhánh công bình. Ngài sẽ cai trị làm vua, lấy cách khôn ngoan mà ăn ở, làm sự chánh trực công bình trong đất. 6 Đương đời vương đó, Giu-đa sẽ được cứu; Y-sơ-ra-ên sẽ ở yên ổn, và người ta sẽ xưng danh Đấng ấy là: Đức Giê-hô-va sự công bình chúng ta!
7 Đức Giê-hô-va phán: Vậy nên những ngày đến, bấy giờ người ta sẽ chẳng còn nói rằng: Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, tức là Đấng đã đem con cái Y-sơ-ra-ên lên khỏi đất Ê-díp-tô. 8 Nhưng nói rằng: Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, tức là Đấng đã đem lên và dắt dòng dõi nhà Y-sơ-ra-ên về từ phương bắc, từ các nước mà ta đã đuổi họ đến. Chúng nó sẽ ở trong đất mình.
9 Về các tiên tri: Lòng ta tan nát trong ta; xương ta thảy đều run rẩy; ta như người say, như người xây xẩm vì rượu, bởi cớ Đức Giê-hô-va và những lời thánh của Ngài.
10 Trong đất đầy những kẻ tà dâm; vì cớ bị rủa sả thì đất nên sầu thảm; những đồng cỏ nơi đồng vắng đều khô khan. Người ta chạy theo đường dữ, sức chúng nó là không công bình; 11 Vì chính kẻ tiên tri thầy tế lễ đều là ô uế, ta thấy sự gian ác chúng nó đến trong nhà ta; Đức Giê-hô-va phán vậy. 12 Cho nên đường chúng nó sẽ như nơi trơn trợt trong tối tăm, sẽ bị đuổi và vấp ngã tại đó. Vì đến năm chúng nó bị thăm phạt, ta sẽ giáng tai vạ trên chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy.
13 Ta đã thấy rõ sự điên dại của bọn tiên tri xứ Sa-ma-ri; chúng nó nhân danh Ba-anh mà nói tiên tri, khiến dân Y-sơ-ra-ên ta lầm lạc. 14 Nhưng, nơi bọn tiên tri ở Giê-ru-sa-lem, ta đã thấy sự đáng gớm ghiếc: chúng nó phạm tội tà dâm, bước theo sự giả dối; chúng nó làm cho cứng vững tay kẻ dữ, đến nỗi chẳng ai xây bỏ sự ác của mình. Ta coi chúng nó thảy đều như Sô-đôm, và dân cư nó như Gô-mô-rơ.
15 Vậy nên, về phần bọn tiên tri đó, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Nầy, ta sẽ cho chúng nó ăn ngải cứu và uống mật đắng; vì các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem đã làm cho sự vô đạo tràn ra trong cả xứ. 16 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Chớ nghe những lời của các tiên tri nói tiên tri với các ngươi. Chúng nó dạy cho các ngươi sự hư không, và nói sự hiện thấy bởi lòng mình, chẳng phải bởi miệng Đức Giê-hô-va. 17 Chúng nó cứ bảo kẻ khinh dể ta rằng: Đức Giê-hô-va phán, các ngươi sẽ được bình an. Lại bảo những kẻ bước theo sự cứng cỏi của lòng mình rằng: Chẳng có tai họa nào sẽ đến trên các ngươi hết. 18 Vậy ai đã đứng được trong sự bàn luận của Đức Giê-hô-va, để được ngắm xem và nghe lời Ngài? Ai đã suy xét và nghe lời Ngài? 19 Nầy, cơn giận của Đức Giê-hô-va đã phát ra như bão, như gió lốc, nổ trên đầu những kẻ dữ. 20 Đức Giê-hô-va chưa làm trọn ý đã định trong lòng, thì cơn giận của Ngài sẽ chẳng trở lại. Trong ngày sau rốt, các ngươi sẽ rõ biết sự ấy.
21 Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. 22 Nếu chúng nó có đứng trong sự bàn luận ta, thì đã khiến dân ta nghe lời ta, và đã làm cho dân từ đường dữ việc xấu mà trở lại rồi. 23 Đức Giê-hô-va phán: Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao? 24 Đức Giê-hô-va phán: Có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho ta đừng thấy chăng? Đức Giê-hô-va phán: Há chẳng phải ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?
25 Ta nghe điều những kẻ tiên tri nầy nói, chúng nó nhân danh ta mà nói tiên tri giả dối, rằng: Ta có chiêm bao; thật, ta có chiêm bao! 26 Những tiên tri ấy, theo sự dối trá của lòng mình mà nói tiên tri, chúng nó có lòng ấy cho đến chừng nào? 27 Chúng nó mỗi người thuật chiêm bao cùng kẻ lân cận, tưởng sẽ khiến dân quên danh ta cũng như tổ phụ chúng nó vì Ba-anh quên danh ta. 28 Khi tiên tri nào có chiêm bao, hãy thuật chiêm bao ấy đi; còn kẻ nào đã lãnh lời ta, hãy truyền lại lời ta cách trung tín! Đức Giê-hô-va phán: Rơm rạ há xen vào với lúa mì sao? 29 Lời ta há chẳng như lửa, như búa đập vỡ đá sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
30 Vậy nên Đức Giê-hô-va phán rằng: Nầy, ta nghịch cùng những kẻ tiên tri ăn cắp lẫn nhau về lời của ta. 31 Đức Giê-hô-va phán: Nầy ta nghịch cùng những kẻ tiên tri dùng lưỡi mình nói ra, mà rằng: Ngài phán. 32 Đức Giê-hô-va phán: Nầy, ta nghịch cùng những kẻ lấy chiêm bao giả dối mà nói tiên tri, thuật lại và lấy lời dối trá khoe khoang mà làm cho dân ta lầm lạc, nhưng ta không sai và cũng không bảo chúng nó; chúng nó cũng không làm ích gì cho dân nầy hết, Đức Giê-hô-va phán vậy.
33 Nếu dân nầy, kẻ tiên tri hay là thầy tế lễ, hỏi ngươi rằng: Gánh nặng của Đức Giê-hô-va là gì? Khá đáp rằng: Gánh nặng gì? Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ từ bỏ các ngươi. 34 Còn như kẻ tiên tri, thầy tế lễ, và dân sẽ nói rằng: Gánh nặng của Đức Giê-hô-va, --- thì ta sẽ phạt người ấy và nhà nó. 35 Vậy, nầy là câu mỗi người khá hỏi kẻ lân cận mình, mỗi người khá hỏi anh em mình rằng: Đức Giê-hô-va đã trả lời làm sao? Đức Giê-hô-va đã phán thể nào? 36 Bấy giờ chớ nói gánh nặng của Đức Giê-hô-va nữa; vì lời của mỗi một người sẽ là gánh nặng của nó, vì các ngươi đã làm trái những lời của Đức Chúa Trời hằng sống, của Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời chúng ta. 37 Vậy ngươi khá hỏi kẻ tiên tri rằng: Đức Giê-hô-va đã trả lời cho ngươi làm sao? Hay là: Đức Giê-hô-va đã phán thể nào? 38 Nhưng nếu các ngươi nói rằng: Gánh nặng của Đức Giê-hô-va, --- bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Vì các ngươi nói lời nầy: Gánh nặng của Đức Giê-hô-va, và ta đã sai đến cùng các ngươi đặng bảo các ngươi rằng: Chớ còn nói rằng: Gánh nặng của Đức Giê-hô-va, --- 39 nhân đó, nầy, ta sẽ quên hẳn các ngươi; ta sẽ bỏ các ngươi, và thành ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi, xa khỏi trước mặt ta. 40 Ta sẽ khiến các ngươi chịu nhơ nhuốc đời đời, hổ thẹn vô cùng, không bao giờ quên được.

23

Tơlơi Čang Rơmang Kơ Rơnŭk Pơanăp

1Yahweh pơhiăp tui anai, “Răm ƀăm yơh kơ ƀing wai triu jing ƀing pơrai hăng pơčơlah hĭ tơpul triu amăng đang rơ̆k Kâo! 2Hơnŭn yơh, anai jing tơlơi Kâo, Yahweh, Ơi Adai ƀing Israel, pơhiăp hăng ƀing wai triu jing ƀing khŏm wai lăng ƀing ană plei Kâo tui anai: Ƀing gih hơmâo pơčơlah hĭ laih tơpul triu Kâo, puh pơđuaĭ hĭ laih ƀing gơñu laih anŭn ƀu răk rong brơi ƀing gơñu ôh. Tui anŭn, Kâo či pơkơhma̱l hĭ ƀing gih yua mơ̆ng tơlơi sat ƀai ƀing gih hơmâo ngă laih.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhaih laih. 3“Kâo pô či pơƀut glaĭ tơpul triu dŏ so̱t Kâo mơ̆ng abih bang lŏn čar, jing anih lŏn Kâo hơmâo puh pơđuaĭ hĭ laih ƀing gơñu. Giŏng anŭn, Kâo či ba glaĭ ƀing gơñu pơ đang rơ̆k gơñu pô, jing anih ƀing gơñu či đĭ kơyar lar lu dơ̆ng amăng anih anŭn yơh. 4Kâo ăt či pha brơi ƀing wai phrâo kơ ƀing gơñu mơ̆n, jing ƀing či wai lăng ƀing gơñu tŏng ten. Tui anŭn, tơpul triu Kâo ƀu či huĭ hyưt ƀôdah huĭ bra̱l dơ̆ng tah laih anŭn amăng ƀing gơñu kŏn hơmâo hlơi pô či rơngiă hĭ lơi.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih.
  5Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Khul hrơi či truh,
   jing hrơi tơdang Kâo či ruah mă pơtao mơ̆ng ană tơčô pơtao Dawid, anăn ñu jing Čơnŭh Tơpă Hơnơ̆ng,
   jing Pơtao či git gai wai lăng rơgơi
   laih anŭn ngă tơlơi djơ̆ hăng tơpă amăng anih lŏn anŭn yơh.
  6Amăng rơnŭk pơtao ñu anih lŏn Yudah či tơklaih hĭ mơ̆ng rŏh ayăt gơñu,
   laih anŭn ƀing Israel či hơdip rơnŭk hơđơ̆ng yơh.
  Arăng či pơanăn kơ ñu tui anai:
   Yahweh Jing Pô Tơpă Hơnơ̆ng Ta.”
7Yahweh pơhiăp tui anai dơ̆ng, “Tui anŭn, amăng rơnŭk anŭn, tơdang arăng kiăng ƀuăn rơ̆ng ñu ƀu či laĭ tui anai dơ̆ng tah, ‘Kâo ƀuăn rơ̆ng amăng anăn Yahweh, jing Pô hơdip hăng ba tơbiă laih ƀing Israel mơ̆ng lŏn čar Êjip.’ 8Kơđai glaĭ ñu či pơhiăp tui anai, ‘Kâo ƀuăn rơ̆ng amăng anăn Yahweh jing Pô hơdip hăng ba tơbiă ƀing Israel mơ̆ng lŏn čar gah dư̱r laih anŭn mơ̆ng abih bang lŏn čar jing khul anih lŏn Ñu hơmâo pơčơlah hĭ laih ƀing gơñu.’ Amăng rơnŭk anŭn, ƀing gơñu či hơdip amăng anih lŏn gơñu pô yơh.”

Ƀing Pô Pơala Ƀlŏr

9Anai yơh jing tơlơi Yirmeyah pơhiăp djơ̆ kơ ƀing pô pơala,
  “Jua pơmĭn kâo rŭng răng hĭ.
   Sĭt abih bang khul tơlang kâo tơtư̆ tơtơ̆ng yơh.
  Yuakơ hơdôm tơlơi Yahweh ngă laih laih anŭn yuakơ hơdôm boh hiăp rơgoh hiam Ñu yơh,
   kâo jing kar hăng sa čô mơnuih măt tơpai,
   jing kar hăng sa čô mơnuih mơñum lu tơpai ƀu thâo pơmĭn rơđah dơ̆ng tah.
  10Anih lŏn anai jing bă hăng ƀing ƀu dŏ tŏng ten hăng Yahweh jing kar hăng ƀing klĕ pyu yơh.
   Anih lŏn anai jing hĭ thu krô laih anŭn khul đang rơ̆k amăng tơdron ha̱r gliu krô hĭ,
   yuakơ tơlơi Ơi Adai hơtŏm păh yơh.
  Ƀing pô pơala ƀlŏr đuaĭ tui hăng hơdră sat ƀai
   laih anŭn yua tơlơi dưi gơñu hăng hơdră ƀu tơpă hơnơ̆ng yơh.”

  11Yahweh pơhiăp tui anai, “Abih dua pô pơala hăng pô khua ngă yang jing ƀing ƀu tui gưt kơ Kâo ôh.
   Wơ̆t tơdah amăng sang yang Kâo, Kâo ăt ƀuh ƀing gơñu ngă tơlơi sat ƀai.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih.
  12“Hơnŭn yơh jơlan ƀing gơñu đuaĭ tui či jing kar hăng jơlan tơbơr amăng tơlơi kơnăm mơmŏt,
   laih anŭn pơ anŭn yơh ƀing gơñu či rơbuh hĭ kar hăng arăng kiaŏ mă ƀing gơñu.
  Kâo či brơi rai tơlơi truh sat ƀơi ƀing gơñu
   jing amăng hrơi Kâo pơkơhma̱l hĭ ƀing gơñu yơh.”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  13“Kâo ƀuh laih ƀing pô pơala amăng plei phŭn Samaria pơhiăp tơlơi hơƀak drak tui anai:
   Ƀing gơñu laĭ lui hlâo amăng anăn yang Baal
   laih anŭn dui ba laih ƀing ană plei Kâo, jing ƀing Israel, jrôk hĭ jơlan.
  14Samơ̆ Kâo ƀuh laih ƀing pô pơala amăng plei phŭn Yerusalaim ngă tơlơi hơƀak drak hloh tui anai:
   Ƀing gơñu klĕ pyu laih anŭn pơhiăp ƀlŏr yơh.
  Ƀing gơñu pơtrŭt ƀing ngă sat ƀai jai ngă sat ƀai lu hloh,
   tơl ƀu hơmâo hlơi pô ôh wĕh đuaĭ hĭ mơ̆ng tơlơi sat ƀai ñu.
  Ƀing pô pơala anŭn jing kar hăng ƀing sat plei Sedôm yơh kơ Kâo.
   Laih anŭn ƀing ană plei Yerusalaim jing kar hăng ƀing ƀai plei Gomôrrah yơh.”
15Hơnŭn yơh, anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp kơ tơlơi ƀing pô pơala anŭn:
  “Kâo či pơgŏ̱ ƀing gơñu ƀơ̆ng gơnam ƀơ̆ng phĭ̱
   laih anŭn mơñum ia akăm,
  yuakơ mơ̆ng ƀing pô pơala amăng plei Yerusalaim
   tơlơi ƀu tui gưt kơ Kâo hơmâo lar laih pơ djŏp djang amăng anih lŏn Yudah.”
16Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp hăng ƀing ană plei plei Yerusalaim:
  “Anăm pơđi̱ng hơmư̆ ôh kơ tơlơi ƀing pô pơala anŭn hlak laĭ lui hlâo kơ ƀing gih.
   Ƀing gơñu pơbă hĭ ƀing gih hăng tơlơi čang rơmang đôč đač yơh.
  Ƀing gơñu pơhiăp khul tơlơi mơ̆ng jua pơmĭn gơñu pô,
   ƀu djơ̆ mơ̆ng amăng bah Kâo, Yahweh ôh.
  17Ƀing gơñu pơhiăp nanao hăng ƀing djik djak kơ Kâo tui anai,
   ‘Yahweh laĭ tui anai: Ƀing gih či dŏ rơnŭk rơno̱m yơh.’
  Laih anŭn ƀing gơñu laĭ hăng abih bang hlơi pô đuaĭ tui tơlơi khăng pran jua gơñu tui anai,
   ‘Ƀu hơmâo tơlơi truh sat hơget ôh či truh ƀơi ƀing gih.’
  18Ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng ƀing gơñu bưp Kâo, Yahweh, laih anŭn dŏ dơ̆ng pơhiăp hăng Kâo
   kiăng kơ pơđi̱ng hơmư̆ boh hiăp Kâo.
   Ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng ƀing gơñu pơđi̱ng hơmư̆ hăng ngă tui laih boh hiăp Kâo.
  19Lăng bĕ, tơlơi hil ƀrŭk Kâo, Yahweh, bluh tơbiă laih kar hăng angĭn rơbŭ,
   laih anŭn či lê̆ trŭn ƀơi akŏ ƀing sat ƀai kar hăng angĭn hơkruăh huer trŭn yơh.
  20Tơlơi hil nač Kâo, Yahweh, ƀu či kơdŭn glaĭ ôh
   tơl Kâo pơgiŏng hĭ hơdôm tơlơi kơñăm jua pơmĭn Kâo yơh.
  Amăng khul hrơi pơanăp
   ƀing gih či thâo hluh rơđah rơđo̱ng yơh tơlơi bruă Kâo ngă anŭn.
  21Kâo, Yahweh, ƀu pơkiaŏ nao ƀing pô pơala ƀlŏr anŭn ôh,
   samơ̆ ƀing gơñu ngă mă hrup hăng ƀing gơñu pơhiăp boh hiăp Kâo.
  Kâo ƀu pơhiăp hăng ƀing gơñu ôh,
   samơ̆ ƀing gơñu hơmâo laĭ lui hlâo laih.
  22Samơ̆ tơdah ƀing gơñu hơmâo bưp hăng pơhiăp laih hăng Kâo,
   tui anŭn ƀing gơñu dưi pơhaih yơh hơdôm boh hiăp Kâo kơ ƀing ană plei Kâo
  laih anŭn dưi pơwĕh hĭ laih ƀing gơ̆ mơ̆ng hơdră jơlan sat ƀai ƀing gơ̆
   laih anŭn mơ̆ng khul tơlơi bruă soh sat ƀing gơ̆.

  23“Kâo yơh kơnơ̆ng jing Ơi Adai dŏ djŏp djang anih,
   laih anŭn ƀu djơ̆ Ơi Adai dŏ amăng sa anih đôč ôh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhaih laih.
  24“Hơmâo mơ̆ hlơi pô dŏ kơdŏp amăng khul anih hơgŏm
   kiăng kơ Kâo ƀu dưi ƀuh ñu ôh?”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih.
   “Djơ̆ mơ̆ Kâo dŏ pơ djŏp djang anih amăng adai laih anŭn ƀơi lŏn tơnah?”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih.
25Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Kâo hơmư̆ laih ƀing pô pơala pơhiăp laĭ lui hlâo ƀlŏr amăng anăn Kâo. Ƀing gơñu laĭ kơ tơlơi kâo hơmâo pơhiăp nanao laih hăng ƀing gơñu amăng tơlơi rơpơi. 26Hơbĭn sui dơ̆ng ƀing pô pơala ƀlŏr či laĭ lui hlâo tui anŭn, jing laĭ lui hlâo kơ tơlơi ƀlŏr mơ̆ng jua pơmĭn gơñu pô lĕ? 27Ƀing gơñu pơlaĭ hăng tơdruă hơdôm tơlơi rơpơi gơñu kiăng kơ ngă kơ ƀing ană plei Kâo wơr bĭt hĭ anăn Kâo jing Yahweh hrup hăng ƀing ơi adon gơñu wơr bĭt hĭ laih Kâo hlâo adih tơdang ƀing gơñu nao kơkuh pơpŭ kơ yang Baal yơh. 28Brơi bĕ kơ pô pơala pă hơmâo tơlơi rơpơi pơruai bĕ kơ tơlơi rơpơi ñu anŭn jing kơnơ̆ng tơlơi rơpơi đôč, samơ̆ brơi bĕ pô pơala hơmâo boh hiăp Kâo sĭt pơhiăp boh hiăp djơ̆ anŭn tŏng ten. Sĭt tơlơi pơrơtưh anai jing djơ̆ tơpă: Adrăng pơdai ƀu jing tŭ yua kar hăng pơdai ôh.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih. 29Yahweh laĭ dơ̆ng tui anai, “Boh hiăp Kâo jing kar hăng apui ƀơ̆ng hĭ laih anŭn kar hăng mơmu̱t taih pơtâo pơčah brai hĭ yơh.”
30Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Hơnŭn yơh, Kâo pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing pô pơala jing ƀing mă tŭ boh hiăp mơ̆ng tơdruă hăng pơhaih ƀlŏr kơ hơdôm boh hiăp anŭn jing tơbiă rai mơ̆ng Kâo yơh. 31Sĭt yơh, Kâo pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing pô pơala pă pơhiăp hăng khul boh hiăp gơñu pô samơ̆ pơhaih ƀlŏr kơ hơdôm boh hiăp anŭn jing tơbiă rai mơ̆ng Kâo.” 32Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Sĭt yơh, Kâo ăt pơkơdơ̆ng glaĭ mơ̆n hăng ƀing hlơi pô pơruai khul tơlơi rơpơi ƀlŏr samơ̆ pơhaih ƀlŏr kơ hơdôm tơlơi rơpơi anŭn jing tơlơi laĭ lui hlâo. Hăng khul tơlơi ƀlŏr gơñu anŭn, ƀing gơñu dui ba ƀing ană plei Kâo jrôk jơlan wơ̆t tơdah Kâo ƀu pơkiaŏ nao ƀing gơñu ƀôdah pơđar kơ ƀing gơñu nao pơhiăp hăng ană plei Kâo anŭn ôh. Tui anŭn, ƀing gơ̆ ƀu hơmâo tơlơi tŭ yua hơget ôh.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih.

Ƀing Pô Pơala Ƀlŏr Laih Anŭn Khul Tơlơi Laĭ Lui Hlâo Ƀlŏr

33Yahweh pơhiăp hăng kâo tui anai, “Ơ Yirmeyah hơi, tơdang sa čô amăng ƀing ană plei anai, sa čô pô pơala ƀôdah sa čô khua ngă yang, tơña tui anai, ‘Hơget boh hiăp kơtraŏ Yahweh brơi laih kơ ih lĕ?’ Ih khŏm laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, ‘Ƀing gih jing tơlơi kơtraŏ kơ Yahweh laih anŭn Ñu laĭ Ñu či đuaĭ lui hĭ ƀing gih yơh.’ ” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp laih. 34“Tơdah sa čô pô pơala, sa čô pô khua ngă yang ƀôdah hlơi pô amăng ƀing ană plei laĭ tui anai, ‘Anai yơh jing boh hiăp kơtraŏ mơ̆ng Yahweh,’ Kâo či pơkơhma̱l hĭ pô anŭn wơ̆t hăng abih sang anŏ ñu yơh. 35Anai yơh jing tơlơi rĭm čô amăng ƀing gih khŏm tơña nanao kơ gơyut ñu ƀôdah adơi ai ñu tui anai, ‘Hơget tơlơi Yahweh laĭ glaĭ lĕ?’ ƀôdah ‘Hơget tơlơi Yahweh hơmâo pơhiăp laih lĕ?’ 36Samơ̆ ƀing gih khŏm anăm laĭ djơ̆ kơ ‘boh hiăp kơtraŏ mơ̆ng Yahweh’ dơ̆ng tah, yuakơ rĭm boh hiăp rĭm čô jing hĭ boh hiăp kơtraŏ mơ̆ng ñu pô yơh, laih anŭn ƀing gih pơwĕ hĭ laih hơdôm boh hiăp Ơi Adai hơdip, jing Yahweh Dưi Kơtang, Ơi Adai ta. 37Anai yơh jing tơlơi ƀing gih khŏm tơña nanao kơ rĭm pô pơala, ‘Hơget tơlơi Yahweh laĭ glaĭ kơ ih lĕ?’ Ƀôdah ‘Hơget Yahweh hơmâo pơhiăp laih lĕ?’ 38Wơ̆t tơdah ƀing gih pơhaih tui anai, ‘Anai jing boh hiăp kơtraŏ mơ̆ng Yahweh,’ tui anŭn Yahweh či pơhiăp tui anai: Wơ̆t tơdah Kâo pơtă laih kơ ƀing gih khŏm anăm pơhaih ôh tui anai, ‘Anai yơh jing boh hiăp kơtraŏ mơ̆ng Yahweh,’ ƀing gih ăt tŏ tui yua hơdôm boh hiăp anŭn mơ̆n. 39Hơnŭn yơh, sĭt Kâo pô či wơr bĭt hĭ ƀing gih laih anŭn puh pơđuaĭ hĭ ƀing gih mơ̆ng anăp Kâo wơ̆t hăng plei Yerusalaim anai, jing plei Kâo pha brơi laih kơ ƀing gih laih anŭn kơ ƀing ơi adon gih. 40Kâo či ba rai ƀơi ƀing gih tơlơi mlâo hlŏng lar, jing tơlơi arăng či hơdơr hlŏng lar yơh.”