(Mat 27:1,2,11-31; Lu 23:1-5,13-25; Gi 18:28–19:16)
1 Vừa lúc ban mai, các thầy tế lễ cả bàn luận với các trưởng lão, các thầy thông giáo cùng cả tòa công luận; khi đã trói Đức Chúa Jêsus rồi, thì giải nộp cho Phi-lát. 2 Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ấy chính ngươi là Vua dân Giu-đa phải không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời. 3 Các thầy tế lễ cả cáo Ngài nhiều điều. 4 Phi-lát lại tra gạn Ngài, mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết sao? Hãy coi họ cáo tội ngươi biết bao nhiêu! 5 Nhưng Đức Chúa Jêsus chẳng trả lời chi nữa, nên nỗi Phi-lát lấy làm lạ. 6 Vả, hễ đến ngày lễ Vượt qua, quan vốn quen thói tha cho dân một tên tù, tùy theo dân xin. 7 Bấy giờ có một đứa tên là Ba-ra-ba bị tù với kẻ làm loạn, vì trong khi nổi loạn, chúng nó phạm tội giết người. 8 Đoàn dân đã lên, bèn xin Phi-lát làm cho mình theo như lệ thường. 9 Phi-lát trả lời rằng: Các ngươi muốn ta tha Vua dân Giu-đa cho chăng? 10 Vì người biết rõ các thầy tế lễ cả đã nộp Ngài bởi lòng ghen ghét. 11 Nhưng các thầy tế lễ cả xui dân xin người tha tên Ba-ra-ba cho mình thì hơn. 12 Phi-lát lại cất tiếng hỏi rằng: Vậy thì các ngươi muốn ta dùng cách nào xử người mà các ngươi gọi là Vua dân Giu-đa? 13 Chúng lại kêu lên rằng: Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá! 14 Phi-lát nói cùng chúng rằng: Song người nầy đã làm điều ác gì? Chúng lại kêu lớn tiếng hơn rằng: Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá! 15 Phi-lát muốn cho đẹp lòng dân, bèn tha tên Ba-ra-ba; và sai đánh đòn Đức Chúa Jêsus, rồi giao Ngài cho chúng đem đóng đinh trên cây thập tự. 16 Lính điệu Đức Chúa Jêsus vào sân trong, tức là trong chỗ trường án; và nhóm cả cơ binh lại đó. 17 Họ choàng cho Ngài một cái áo điều, và đội trên đầu Ngài một cái mão bằng gai họ đã đương, 18 rồi chào Ngài rằng: Kính lạy Vua dân Giu-đa! 19 Lại lấy cây sậy đánh đầu Ngài, nhổ trên Ngài, và quì xuống trước mặt Ngài mà lạy. 20 Khi họ đã nhạo cười Ngài như vậy rồi, thì cởi áo điều ra, mặc áo của Ngài lại cho Ngài, và đem ra để đóng đinh trên cây thập tự.
Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên cây thập tự
(Mat 27:32-46; Lu 23:26-49; Gi 19:17-30)
21 Có một tên Si-môn kia, người thành Sy-ren, là cha A-léc-xan-đơ và Ru-phu, ở ngoài ruộng về, đi ngang qua đó; họ bắt phải vác cây thập tự.⚓22 Họ đem Đức Chúa Jêsus đến nơi kia, gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ Sọ. 23 Họ cho Ngài uống rượu hòa với một dược; song Ngài không uống. 24 Khi đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi, họ chia áo xống Ngài cho nhau, bắt thăm để biết ai được gì.⚓25 Lúc đóng đinh Ngài, là giờ thứ ba.⚓26 Án Ngài có ghi vào cái bảng rằng: Vua Dân Giu-đa. 27 Cũng có hai đứa ăn cướp bị đóng đinh với Ngài, một đứa tại cây thập tự bên hữu Ngài, một đứa tại cây thập tự bên tả.⚓⚓ 29 Những kẻ đi ngang qua đó chế báng Ngài, lắc đầu mà nói rằng: Ê! ngươi là kẻ phá đền thờ, và cất lại trong ba ngày,⚓30 hãy cứu lấy mình, xuống khỏi cây thập tự đi! 31 Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo cũng nói với nhau như vậy, mà nhạo cười Ngài rằng: Hắn đã cứu kẻ khác; mà cứu mình không được! 32 Hỡi Đấng Christ, Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự, để cho chúng ta thấy và tin! Hai đứa bị đóng đinh cùng Ngài cũng nhiếc móc Ngài nữa. 33 Đến giờ thứ sáu, khắp đất đều tối tăm mù mịt cho tới giờ thứ chín.⚓34 Đến giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu lớn tiếng rằng: Ê-lô-i, Ê-lô-i, lam-ma-sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?⚓35 Có mấy người đứng đó nghe vậy, thì nói rằng: Coi kìa, hắn kêu Ê-li. 36 Có một người trong bọn họ chạy lấy bông đá thấm đầy giấm, để trên đầu cây sậy, đưa cho Ngài uống, mà nói rằng: Hãy để chúng ta coi thử Ê-li có đến đem hắn xuống chăng!⚓37 Nhưng Đức Chúa Jêsus kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. 38 Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên chí dưới.⚓39 Thầy đội đứng đối ngang Ngài, thấy Ngài trút linh hồn như vậy, thì nói rằng: Người nầy quả thật là Con Đức Chúa Trời. 40 Lại có những đàn bà đứng xa xa mà xem. Trong số ấy có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri là mẹ Gia-cơ nhỏ, và Giô-sê, cùng Sa-lô-mê,⚓41 là ba người đã theo hầu việc Ngài khi Ngài ở xứ Ga-li-lê; cũng có nhiều đàn bà khác nữa, là những người đã theo Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem.
Sự chôn Chúa
(Mat 27:57-61; Lu 23:50-56; Gi 19:38-42)
42 Bấy giờ là ngày sắm sửa, nghĩa là hôm trước ngày Sa-bát; khi đã chiều tối, 43 có một người tên là Giô-sép, ở thành A-ri-ma-thê, là nghị viên tòa công luận có danh vọng, cũng trông đợi nước Đức Chúa Trời. Người bạo gan đến Phi-lát mà xin xác Đức Chúa Jêsus. 44 Phi-lát lấy làm lạ về Ngài chết mau như vậy, bèn đòi thầy đội đến mà hỏi thử Ngài chết đã lâu chưa. 45 Vừa nghe tin thầy đội trình, thì giao xác cho Giô-sép. 46 Người đã mua vải liệm, cất xác Đức Chúa Jêsus xuống khỏi cây thập tự, dùng vải liệm vấn lấy Ngài, rồi để xác trong huyệt đã đục trong hòn đá lớn, đoạn, lăn một hòn đá chận cửa huyệt lại. 47 Vả, Ma-ri Ma-đơ-len cùng Ma-ri mẹ Giô-sê, đều thấy chỗ táng Ngài.
15
Yêsu Ti Anăp Aê Pilat
(Mat 27:1-2,11-14; Luk 23:1-5; Yôh 18:28-38)
1Ti aguah ưm, phung knơ̆ng khua ngă yang prŏng, phung khua mduôn, phung khua čih hră, leh anăn jih jang phung khua phat kđi bi trông čhai. Diñu kă Yêsu leh anăn atăt ba jao gơ̆ kơ Aê Pilat. 2Aê Pilat êmuh kơ Yêsu, “Ih jing Mtao phung Yuđa mơ̆?” Yêsu lŏ wĭt lač kơ ñu, “Ơ, ih lač leh klei anăn.” 3Leh anăn phung knơ̆ng khua ngă yang kčŭt kơ Yêsu lu mta klei. 4Aê Pilat lŏ êmuh kơ Yêsu, “Ih amâo lŏ wĭt lač ôh hĕ? Hmư̆ bĕ klei diñu kčŭt kơ ih lu snăk.” 5Ƀiădah Yêsu amâo lŏ wĭt lač ôh. Snăn Aê Pilat bi kngăr.
Aê Pilat Blŭ Kđi Brei Bi Mdjiê Yêsu
(Mat 27:15-26; Luk 23:13-25; Yôh 18:39–19:16)
6Grăp hruê Knăm Klei Găn Aê Pilat bhiăn pŏk kơ phung ƀuôn sang sa čô mnă hlei pô diñu akâo. 7Hlăm phung bi kdơ̆ng arăng krư̆ leh, mâo sa čô mnuih, anăn gơ̆ Y-Barabas bi mdjiê mnuih êjai mâo klei bi kdơ̆ng anăn. 8Phung lu hriê dơ̆ng akâo kơ Aê Pilat brei ñu ngă msĕ si ñu khăng ngă. 9Aê Pilat lŏ wĭt lač kơ diñu, “Diih čiăng mơ̆ kâo phưi kơ diih Mtao phung Yuđa?” 10Kyuadah ñu thâo leh kơ phung knơ̆ng khua ngă yang jao Yêsu leh kyua klei nač. 11Ƀiădah phung knơ̆ng khua ngă yang mčhur phung lu čiăng kơ Aê Pilat pŏk Y-Barabas kơ diñu hrô kơ Yêsu. 12Leh anăn Aê Pilat lŏ lač kơ diñu, “Snăn ya kâo srăng ngă hŏng mnuih pô diih pia Mtao phung Yuđa?” 13Diñu lŏ ur, “Pơ̆ng hĕ ñu ti kyâo bi kal.” 14Aê Pilat lač kơ diñu, “Si ngă, ya klei jhat ñu ngă leh?” Ƀiădah diñu ur ktang hĭn êjai, “Pơ̆ng hĕ ñu ti kyâo bi kal!” 15Snăn kyua Aê Pilat čiăng bi mơak kơ phung lu anăn, ñu pŏk Y-Barabas kơ diñu. Leh ñu brei arăng čăm Yêsu hŏng giê, ñu jao Yêsu brei phung kahan pơ̆ng ti kyâo bi kal.
Phung Kahan Mưč kơ Yêsu
(Mat 27:27-31; Yôh 19:2-3)
16Phung kahan atăt Yêsu mŭt hlăm wăl sang khua čar (čiăng lač sang phat kđi), leh anăn diñu iêu bi kƀĭn jih jang êpul kahan mđrăm mbĭt. 17Diñu bi hơô ao jhung hrah jŭ kơ Yêsu, leh anăn diñu mñam sa boh đuôn mtao êruê leh anăn bi mđua ti boh kŏ gơ̆. 18Diñu dơ̆ng kkuh kơ gơ̆, “Kkuh kơ ih, Ơ Mtao phung Yuđa ah!” 19Diñu čăm boh kŏ gơ̆ hŏng giê mbô, kčuh êa bah ti gơ̆, leh anăn čuôn kơŭt kkuh kơ gơ̆. 20Leh diñu mưč kơ gơ̆, diñu toh hĕ ao hrah jŭ, lŏ bi hơô ao gơ̆ pô. Leh anăn diñu atăt ba gơ̆ čiăng pơ̆ng ti kyâo bi kal.
Arăng Pơ̆ng Yêsu Ti Kyâo Bi Kal
(Mat 27:32-44; Luk 23:26-43; Yôh 19:17-27)
21 Mâo sa čô mnuih, anăn gơ̆ Y-Simôn mơ̆ng čar Siren, ama Y-Aleksanđơr leh anăn Y-Ruphus, hriê mơ̆ng êngao ƀuôn găn tinăn. Diñu mgô̆ gơ̆ klam kyâo bi kal Yêsu. 22Diñu atăt ba Yêsu kơ anôk arăng pia Gôlgôtha, (čiăng lač Anôk Klang Kŏ). 23Diñu myơr brei Yêsu mnăm kpiê bi lŭk hŏng êa drao phĭ ƀâo mngưi, ƀiădah gơ̆ amâo mnăm ôh. 24 Diñu pơ̆ng gơ̆ ti kyâo bi kal, leh anăn bi mbha čhiăm ao gơ̆ hdơ̆ng diñu hŏng klei mđăo, čiăng bi thâo ya grăp čô srăng mă. 25Ti dua păn mông aguah diñu pơ̆ng Yêsu ti kyâo bi kal. 26Arăng čih klei phat kđi kơ gơ̆ snei: “Mtao kơ Phung Yuđa.” 27Diñu pơ̆ng ti kyâo bi kal mbĭt hŏng Yêsu dua čô mnuih knĕ, sa čô tĭng hnuă, sa čô tĭng điâo Yêsu. 29 Phung găn tinăn mưč kơ Yêsu, kteh kŏ, leh anăn lač, “Ah hah! Ơ pô čiăng bi rai Sang Kkuh Mpŭ leh anăn lŏ mdơ̆ng gơ̆ hlăm tlâo hruê, 30bi mtlaih bĕ ih pô, leh anăn trŭn mơ̆ng kyâo bi kal.” 31Phung knơ̆ng khua ngă yang mbĭt hŏng phung khua čih hră msĕ mơh mưč kơ Yêsu êjai lač hdơ̆ng diñu snei, “Ñu bi mtlaih leh phung mkăn, ƀiădah ñu amâo dưi bi mtlaih ñu pô ôh. 32Kăp dlăng lăng Krist, Mtao phung Israel, trŭn ară anei mơ̆ng kyâo bi kal, čiăng kơ drei dưi ƀuh leh anăn đăo.” Phung arăng pơ̆ng ti kyâo bi kal mbĭt hŏng Yêsu dlao wač kơ Ñu msĕ mơh.