13

Thí dụ về nước Đức Chúa Trời

(Mac 4:1-12,30-32; Lu 8:4-10; 13:8-9)

1 Cũng ngày ấy, Đức Chúa Jêsus ra khỏi nhà, ngồi bên mé biển. 2 Đoàn dân nhóm họp xung quanh Ngài đông lắm, đến nỗi Ngài phải xuống thuyền mà ngồi, còn cả đoàn dân đứng trên bờ. 3 Ngài dùng thí dụ mà giảng nhiều điều cùng họ.
 Ngài phán như vầy: Có người gieo giống đi ra đặng gieo.
4 Khi đương gieo, một phần giống rơi dọc đường, chim bay xuống và ăn. 5 Một phần khác rơi nhằm chỗ đất đá sỏi, chỉ có ít đất thịt, bị lấp không sâu, liền mọc lên; 6 song khi mặt trời mọc lên, thì bị đốt, và vì không có rễ, nên phải héo. 7 Một phần khác rơi nhằm bụi gai, gai mọc rậm lên, phải nghẹt ngòi. 8 Một phần khác nữa rơi nhằm chỗ đất tốt, thì sanh trái; hoặc một hột ra được một trăm, hoặc một hột sáu chục, hoặc một hột ba chục. 9 Ai có tai, hãy nghe!
10 Môn đồ bèn đến gần Ngài mà hỏi rằng: Sao thầy dùng thí dụ mà phán cùng chúng vậy? 11 Ngài đáp rằng: Bởi vì đã ban cho các ngươi được biết những điều mầu nhiệm của nước thiên đàng, song về phần họ, thì không ban cho biết. 12 Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ được dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì lại cất luôn điều họ đã có nữa. 13 Vậy nên ta phán thí dụ cùng chúng; vì họ xem mà không thấy, lắng tai mà không nghe, và không hiểu chi hết. 14 Vậy, về họ, đã được ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai rằng:
 Các ngươi sẽ lóng tai nghe, mà chẳng hiểu chi;
 Lấy mắt xem mà chẳng thấy chi.
15 Vì lòng dân nầy đã cứng cỏi;
 Đã làm cho nặng tai
 Và nhắm mắt mình lại,
 E khi mắt mình thấy được,
 Tai mình nghe được,
 Lòng mình hiểu được,
 Họ tự hối cải lại,
 Và ta chữa họ được lành chăng.
16 Nhưng phước cho mắt các ngươi vì thấy được; phước cho tai các ngươi, vì nghe được! 17 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, có nhiều đấng tiên tri, nhiều người công chính đã ước ao thấy điều các ngươi thấy, mà chẳng được thấy; ước ao nghe điều các ngươi nghe, mà chẳng được nghe.
18 Ấy vậy, các ngươi hãy nghe nghĩa ví dụ về kẻ gieo giống là gì. 19 Khi người nào nghe đạo nước thiên đàng, mà không hiểu, thì quỉ dữ đến cướp điều đã gieo trong lòng mình; ấy là kẻ chịu lấy hột giống rơi ra dọc đàng. 20 Người nào chịu lấy hột giống nơi đất đá sỏi, tức là kẻ nghe đạo, liền vui mừng chịu lấy; 21 song trong lòng không có rễ, chỉ tạm thời mà thôi, đến khi vì đạo mà gặp sự cực khổ, sự bắt bớ, thì liền vấp phạm. 22 Kẻ nào chịu lấy hột giống nơi bụi gai, tức là kẻ nghe đạo; mà sự lo lắng về đời nầy, và sự mê đắm về của cải, làm cho nghẹt ngòi đạo và thành ra không kết quả. 23 Song, kẻ nào chịu lấy hột giống nơi đất tốt, tức là kẻ nghe đạo và hiểu; người ấy được kết quả đến nỗi một hột ra một trăm, hột khác sáu chục, hột khác ba chục.
24 Đức Chúa Jêsus phán ví dụ khác cùng chúng rằng: Nước thiên đàng giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Nhưng đương khi người ta ngủ, thì kẻ thù chủ ruộng liền đến, gieo cỏ lùng vào trong lúa mì, rồi đi. 26 Đến khi lúa mì lớn lên, và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lòi ra. 27 Các đầy tớ của chủ nhà bèn đến thưa rằng: Thưa chủ, chủ không gieo giống tốt trong ruộng chủ sao? Vậy thì cỏ lùng bởi đâu mà ra? 28 Chủ đáp rằng: Ấy là một kẻ thù đã làm điều đó. Các đầy tớ thưa rằng: Vậy chủ có muốn chúng tôi đi nhổ cỏ đó chăng? 29 Chủ rằng: Chẳng nên, e khi nhổ cỏ lùng, hoặc các ngươi nhổ lộn lúa mì đi chăng. 30 Hãy để cho cả hai thứ cùng lớn lên cho đến mùa gặt; đến mùa gặt, ta sẽ dặn con gặt rằng: Trước hết hãy nhổ cỏ lùng, bó lại từng bó mà đốt đi; song hãy thâu trữ lúa mì vào kho ta.
31 Ngài lấy ví dụ khác mà phán rằng: Nước thiên đàng giống như một hột cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình; 32 hột ấy thật nhỏ hơn cả các giống khác, song khi đã mọc lên, thì lớn hơn các thứ rau, và trở nên cây cối, cho đến nỗi chim trời tới làm ổ trên nhành nó được.
33 Ngài lấy ví dụ khác nữa mà phán rằng: Nước thiên đàng giống như men mà người đàn bà kia lấy trộn vào trong ba đấu bột, cho đến chừng nào bột dậy cả lên.
34 Đức Chúa Jêsus lấy lời ví dụ mà phán những điều đó cùng đoàn dân, Ngài chẳng phán điều gì cùng họ mà không dùng lời ví dụ, 35 để được ứng nghiệm lời đấng tiên tri rằng:
 Ta sẽ mở miệng ra mà nói lời ví dụ,
 Ta sẽ rao bảo những điều kín nhiệm từ khi dựng nên trời đất.
36 Bấy giờ, Đức Chúa Jêsus cho chúng về, rồi vào nhà; môn đồ đến gần mà hỏi Ngài rằng: Xin thầy giải lời ví dụ về cỏ lùng trong ruộng cho chúng tôi. 37 Ngài đáp rằng: Kẻ gieo giống tốt, là Con người; 38 ruộng, là thế gian; giống tốt, là con cái nước thiên đàng; cỏ lùng, là con cái quỉ dữ; 39 kẻ nghịch thù gieo cỏ ấy, là ma quỉ; mùa gặt, là ngày tận thế; con gặt, là các thiên sứ. 40 Còn người ta nhổ cỏ lùng mà đốt trong lửa thể nào, thì ngày tận thế cũng sẽ như vậy; 41 Con người sẽ sai các thiên sứ Ngài thâu mọi gương xấu và những kẻ làm ác khỏi nước Ngài, 42 và quăng những người đó vào lò lửa, là nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng. 43 Khi ấy, những người công bình sẽ chói rạng như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai, hãy nghe!
44 Nước thiên đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui mừng mà trở về, bán hết gia tài mình, mua đám ruộng đó.
45 Nước thiên đàng lại giống như một người lái buôn kiếm ngọc châu tốt, 46 khi đã tìm được một hột châu quí giá, thì đi bán hết gia tài mình mà mua hột châu đó.
47 Nước thiên đàng cũng giống như một tay lưới thả xuống biển, bắt đủ mọi thứ cá. 48 Khi lưới được đầy rồi, thì người đánh cá kéo lên bờ; đoạn, ngồi mà chọn giống tốt để riêng ra, đem bỏ vào rổ, còn giống xấu thì ném đi. 49 Đến ngày tận thế cũng như vậy: Các thiên sứ sẽ đến và chia kẻ ác với người công bình ra, 50 ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.
51 Các ngươi có hiểu mọi điều đó chăng? Các môn đồ thưa rằng: Có hiểu. 52 Ngài bèn phán rằng: Vì cớ ấy, mọi thầy thông giáo đã học thông đạo về nước thiên đàng, thì giống như một người chủ nhà kia, đem những vật mới và cũ ở trong kho mình ra.

Chúa về Na-xa-rét

(Mac 6:1-6; Lu 4:16-30)

53 Đức Chúa Jêsus phán các lời ví dụ ấy rồi, thì đi khỏi chỗ đó. 54 Ngài về đến quê hương, rồi dạy dỗ trong nhà hội, đến nỗi ai nghe cũng lấy làm lạ, mà nói rằng: Bởi đâu mà người nầy được khôn ngoan và những phép lạ nầy? 55 Có phải là con người thợ mộc chăng? Mẹ người có phải là Ma-ri, và anh em người là Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn, Giu-đe chăng? 56 Chị em người đều ở giữa chúng ta chăng? Bởi đâu mà người nầy được mọi điều ấy như vậy? 57 Họ bèn vì cớ Ngài mà vấp phạm. Song Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Đấng tiên tri chỉ bị trong xứ mình và người nhà mình khinh dể mà thôi. 58 Ở đó, Ngài không làm nhiều phép lạ, vì chúng không có lòng tin.

13

Klei Bi Hriêng kơ Pô Rah Mjeh

(Mark 4:1-9; Luk 8:4-8)

1Hruê anăn mơh Yêsu kbiă mơ̆ng sang leh anăn dôk gŭ ti hang êa ksĭ. 2Leh anăn phung lu bi kƀĭn jŭm Ñu, snăn Ñu đĭ hlăm čhŏng leh anăn dôk gŭ; leh anăn jih phung lu dôk dơ̆ng ti hang. 3Ñu mtô kơ digơ̆ lu mta hŏng klei bi hriêng, lač, “Sa čô mnuih rah mjeh nao rah. 4Êjai ñu rah, sa kdrêč mjeh lĕ ktuê êlan, leh anăn čĭm hriê čoh ƀơ̆ng mjeh anăn. 5Mjeh mkăn lĕ hlăm anôk lăn boh tâo, mâo lăn ƀơ ƀiă, leh anăn mjeh čăt mtam kyuadah lăn amâo êlam ôh; 6Tơdah yang hruê ƀlĕ, mjeh mrâo čăt anăn dliu; leh anăn kyuadah amâo mâo ôh agha, diñu krô hĕ. 7Mjeh mkăn lĕ hlăm anôk êruê. Êruê hriê kơ dlông leh anăn ktư̆ hĕ mjeh anăn. 8Mjeh mkăn lĕ hlăm anôk lăn jăk leh anăn mboh, đa sa asăr jing sa êtuh, đa năm pluh, đa tlâo pluh. 9Hlei pô mâo knga, hmư̆ bĕ.”

Klei Kñăm hlăm Klei Bi Hriêng

(Mark 4:10-12; Luk 8:9-10)

10Leh anăn phung ƀĭng kna nao êmuh kơ Ñu, “Si ngă ih blŭ kơ diñu hŏng klei bi hriêng?” 11Ñu lŏ wĭt lač kơ digơ̆, “Diih mă tŭ leh klei thâo săng klei hgăm kơ ƀuôn ala mtao adiê, ƀiădah diñu amâo mâo ôh. 12Kyuadah arăng srăng lŏ thiăm brei kơ hlei pô mâo leh, leh anăn ñu srăng mâo lu êbeh; ƀiădah mơ̆ng hlei pô amâo mâo ôh, arăng srăng sua mă hĕ wăt ya mnơ̆ng ñu mâo leh. 13Kâo čiăng blŭ klei bi hriêng kơ diñu, kyuadah diñu dlăng ƀiădah amâo ƀuh ôh, diñu mđing knga ƀiădah amâo hmư̆ ôh, kăn diñu thâo săng rei. 14Sĭt nik bi sĭt leh kơ diñu klei Y-Êsai hưn êlâo leh snei:
  ‘Diih srăng mđing hmư̆,
   ƀiădah amâo thâo săng ôh;
  diih srăng iêp dlăng,
   ƀiădah amâo thâo kral ôh.
  15Kyuadah ai tiê phung ƀuôn sang anei jing khăng leh,
   leh anăn knga diñu kngăl leh,
  diñu pĭt leh ală diñu,
   kyuadah tơdah diñu ƀuh hŏng ală diñu,
  hmư̆ hŏng knga diñu,
   thâo săng hlăm ai tiê diñu,
   leh anăn wĭt kơ kâo čiăng kơ kâo bi hlao diñu.’
16Ƀiădah jăk mơak yơh ală diih, kyuadah dưi ƀuh, leh anăn jăk mơak yơh knga diih, kyuadah thâo hmư̆. 17Sĭt nik kâo lač kơ diih, lu phung khua pô hưn êlâo leh anăn phung kpă ênô čiăng snăk ƀuh klei diih ƀuh, ƀiădah diñu amâo ƀuh ôh, leh anăn čiăng hmư̆ klei diih hmư̆, ƀiădah diñu amâo hmư̆ ôh.

Yêsu Mblang Klei Bi Hriêng kơ Pô Rah Mjeh

(Mark 4:13-20; Luk 8:11-15)

18Snăn hmư̆ bĕ klei mblang klei bi hriêng kơ mnuih rah mjeh anăn. 19Tơdah sa čô hmư̆ klei blŭ kơ ƀuôn ala mtao leh anăn amâo thâo săng ôh, pô jhat truh mă hĕ ya klei arăng rah leh hlăm ai tiê ñu, anei jing mjeh rah ktuê êlan. 20Bi kơ mjeh arăng rah hlăm lăn boh tâo, jing pô hmư̆ klei blŭ leh anăn mă tŭ mtam hŏng klei hơ̆k, 21ƀiădah klei blŭ amâo mâo agha ôh hlăm ñu, ñu dôk gĭr knŏng bhiâo. Leh anăn tơdah mâo klei knap mñai amâodah klei ngă jhat truh kyua klei blŭ, ñu lui wir mtam. 22Bi kơ mjeh rah ti anôk êruê, jing pô hmư̆ klei blŭ, ƀiădah klei uêñ hnĭng kơ lăn ala leh anăn klei mplư kbiă mơ̆ng klei čiăng klei mdrŏng sah ktư̆ hĕ klei blŭ, leh anăn ñu amâo mboh ôh. 23Bi kơ mjeh arăng rah leh ti lăn jăk, jing pô hmư̆ klei blŭ leh anăn thâo săng. Sĭt nik ñu mboh tơl sa asăr mjeh lŏ jing sa êtuh, đa năm pluh, đa tlâo pluh.”

Klei Bi Hriêng kơ Rơ̆k Jhat

24Yêsu mtô kơ diñu klei bi hriêng mkăn, lač, “Ƀuôn ala mtao adiê dưi bi hmô hŏng sa čô êkei rah mjeh jăk hlăm hma ñu, 25ƀiădah êjai arăng pĭt, pô roh ñu hriê rah rơ̆k jhat hlăm mdiê ƀlê leh anăn đuĕ. 26Tơdah mdiê ƀlê hriê kơ dlông leh anăn mboh, rơ̆k jhat bi êdah mơh. 27Phung dĭng buăl pô hma anăn hriê lač kơ ñu, ‘Ơ khua, mjeh jăk yơ̆ ih rah hlăm hma ih? Si ngă mâo hĕ rơ̆k jhat lĕ?’ 28Ñu lač kơ digơ̆, ‘Sa čô roh yơh ngă klei anăn.’ Phung dĭng buăl lač kơ ñu, ‘Ih čiăng mơ̆ hmei nao buč hĕ rơ̆k anăn?’ 29Ƀiădah ñu lač, ‘Hơăi, huĭdah êjai diih buč rơ̆k jhat anăn diih buč hĕ wăt mdiê ƀlê mbĭt mơh. 30Lui jih dua anăn hriê kơ dlông tơl truh ti yan wiă; leh anăn ti yan wiă kâo srăng mtă kơ phung wiă, buč rơ̆k jhat êlâo leh anăn čăp pioh čuh hĕ, ƀiădah bi kƀĭn mdiê ƀlê hlăm hjiê kâo.’ ”

Klei Bi Hriêng kơ Asăr Djam Bei Hat

(Mark 4:30-32; Luk 13:18-19)

31Yêsu lŏ blŭ klei bi hriêng mkăn kơ digơ̆, lač, “Ƀuôn ala mtao adiê jing msĕ si sa asăr djam bei hat sa čô mnuih mă leh anăn rah hlăm hma ñu. 32Gơ̆ jing asăr mjeh điêt hĭn kơ jih jang mjeh, ƀiădah tơdah gơ̆ čăt dlông leh, gơ̆ jing prŏng hĭn kơ jih jang ana djam leh anăn jing hĕ sa ƀĕ ana kyâo. Snăn čĭm hlăm adiê hriê ngă hruh ti adhan ñu.”

Klei Bi Hriêng kơ Kpei

(Luk 13:20-21)

33Ñu lŏ blŭ kơ digơ̆ klei bi hriêng mkăn. “Ƀuôn ala mtao adiê jing msĕ si kpei sa čô mniê mă bi lŭk hŏng tlâo hnơ̆ng kpŭng tơl kpŭng anăn blang jih.”

Klei Kñăm hlăm Klei Yêsu Bi Hriêng

(Mark 4:33-34)

34Yêsu blŭ kơ phung lu jih jang klei anăn hŏng klei bi hriêng sơăi. Ñu amâo blŭ ôh kơ digơ̆ tơdah amâo yua klei bi hriêng. 35Klei anăn čiăng bi sĭt klei khua pô hưn êlâo blŭ leh snei:
 “Kâo srăng ha blŭ hŏng klei bi hriêng,
 Kâo srăng hưn klei mdăp leh dơ̆ng mơ̆ng klei hrih lăn ala.”

Yêsu Mblang Klei Bi Hriêng kơ Rơ̆k Jhat

36Leh anăn Ñu lui phung lu leh anăn mŭt hlăm sang. Phung ƀĭng kna Ñu nao kơ Ñu, lač, “Mblang kơ hmei klei bi hriêng kơ rơ̆k jhat hlăm hma.” 37Ñu lŏ wĭt lač, “Pô rah mjeh jăk jing Anak Mnuih, 38hma jing lăn ala, mjeh jăk jing phung anak ƀuôn ala mtao, rơ̆k jhat jing phung anak pô jhat, 39pô roh rah mjeh rơ̆k jhat anăn jing yang jhat, yan wiă jing klei knhal tuč ênuk, leh anăn phung wiă jing phung dĭng buăl jăk Aê Diê. 40Msĕ si arăng mă rơ̆k jhat anăn, bi kƀĭn leh anăn čuh hlăm pui, arăng srăng ngă msĕ snăn mơh ti knhal tuč ênuk. 41Anak Mnuih srăng tiŏ nao phung dĭng buăl jăk Ñu, leh anăn digơ̆ srăng mă mơ̆ng ƀuôn ala mtao Ñu jih jang phung bi msoh arăng leh anăn phung ngă klei jhat, 42leh anăn hwiê diñu hlăm kpur pui prŏng. Ti anôk anăn srăng mâo klei čŏk hia leh anăn klei kriêt êgei. 43Leh anăn phung kpă ênô srăng mtrang msĕ si yang hruê hlăm ƀuôn ala mtao Ama diñu. Hlei pô mâo knga, brei ñu hmư̆ bĕ.”

Klei Bi Hriêng kơ Ngăn Yuôm Arăng Mdăp Leh

44“Ƀuôn ala mtao adiê jing msĕ si ngăn yuôm arăng mdăp leh hlăm sa bĭt hma. Sa čô mnuih ƀuh ngăn yuôm anăn ñu mdăp hĕ, leh anăn hŏng klei hơ̆k ñu nao čhĭ jih jang mnơ̆ng ñu mâo leh anăn blei hma anăn.”

Klei Bi Hriêng kơ Añŭ Yuôm

45“Msĕ mơh ƀuôn ala mtao adiê jing msĕ si sa čô mnia hiu duah añŭ yuôm. 46Tơdah leh ñu ƀuh sa asăr añŭ yuôm êdi, ñu nao čhĭ jih mnơ̆ng ñu mâo leh anăn blei añŭ anăn.”

Klei Bi Hriêng kơ Jal

47“Msĕ mơh ƀuôn ala mtao adiê jing msĕ si sa blah jal arăng dlăm hlăm êa ksĭ djŏ djăp mta kan. 48Tơdah jal bŏ leh, arăng ktŭng jal anăn kơ hang. Diñu dôk gŭ ruah kan jăk dưm hlăm bai, ƀiădah hwiê hĕ kan jhat. 49Srăng jing msĕ snăn mơh ti hruê knhal tuč ênuk. Phung dĭng buăl jăk Aê Diê srăng hriê leh anăn bi kah mă phung jhat mơ̆ng phung kpă ênô, 50leh anăn dlăm hĕ diñu hlăm kpur pui prŏng. Tinăn diñu srăng čŏk hia leh anăn kriêt êgei.”

Klei Sĭt Nik Mrâo Wăt Hđăp

51“Diih thâo săng leh mơ̆ jih klei anăn?” Digơ̆ lač kơ Ñu, “Ơ, thâo săng mơh.” 52Leh anăn Yêsu lač kơ digơ̆, “Snăn grăp čô khua čih hră arăng bi hriăm leh pioh kơ ƀuôn ala mtao adiê jing msĕ si sa čô khua sang bi kbiă mnơ̆ng mrâo wăt mnơ̆ng hđăp mơ̆ng adŭ ngăn drăp ñu.”

Arăng Hngah kơ Yêsu Ti Ƀuôn Nasaret

(Mark 6:1-6; Luk 4:16-30)

53Tơdah Yêsu ruê̆ leh blŭ klei bi hriêng anăn, Ñu đuĕ mơ̆ng anôk anăn. 54Ñu wĭt kơ čar Ñu pô leh anăn mtô hlăm sang bi kƀĭn. Phung hmư̆ Ñu bi kngăr leh anăn lač, “Mơ̆ng êkei anei mâo klei thâo mĭn anei leh anăn dưi ngă bruă myang anei? 55Amâo djŏ hĕ Ñu jing anak pô krah kmeh? Amâo djŏ hĕ anăn amĭ Ñu H'Mari? Leh anăn amâo djŏ hĕ phung ayŏng adei Ñu jing Y-Yakơ, Y-Yôsep, Y-Simôn, leh anăn Y-Yut? 56Leh anăn amâo djŏ hĕ jih jang phung amai adei Ñu dôk mbĭt hŏng drei? Snăn mơ̆ng êkei anei mâo jih jang klei anei?” 57Leh anăn diñu têč hnêč kyua Yêsu. Ƀiădah Yêsu lač kơ diñu, “Sa čô khua pô hưn êlâo mâo klei mpŭ tar ƀar anôk, ƀiădah ƀuôn ñu pô leh anăn gŏ sang ñu pô arăng amâo mpŭ ôh.” 58Leh anăn Ñu amâo ngă ôh lu bruă myang tinăn, kyuadah diñu amâo đăo ôh.