13

Thí dụ về nước Đức Chúa Trời

(Mac 4:1-12,30-32; Lu 8:4-10; 13:8-9)

1 Cũng ngày ấy, Đức Chúa Jêsus ra khỏi nhà, ngồi bên mé biển. 2 Đoàn dân nhóm họp xung quanh Ngài đông lắm, đến nỗi Ngài phải xuống thuyền mà ngồi, còn cả đoàn dân đứng trên bờ. 3 Ngài dùng thí dụ mà giảng nhiều điều cùng họ.
 Ngài phán như vầy: Có người gieo giống đi ra đặng gieo.
4 Khi đương gieo, một phần giống rơi dọc đường, chim bay xuống và ăn. 5 Một phần khác rơi nhằm chỗ đất đá sỏi, chỉ có ít đất thịt, bị lấp không sâu, liền mọc lên; 6 song khi mặt trời mọc lên, thì bị đốt, và vì không có rễ, nên phải héo. 7 Một phần khác rơi nhằm bụi gai, gai mọc rậm lên, phải nghẹt ngòi. 8 Một phần khác nữa rơi nhằm chỗ đất tốt, thì sanh trái; hoặc một hột ra được một trăm, hoặc một hột sáu chục, hoặc một hột ba chục. 9 Ai có tai, hãy nghe!
10 Môn đồ bèn đến gần Ngài mà hỏi rằng: Sao thầy dùng thí dụ mà phán cùng chúng vậy? 11 Ngài đáp rằng: Bởi vì đã ban cho các ngươi được biết những điều mầu nhiệm của nước thiên đàng, song về phần họ, thì không ban cho biết. 12 Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ được dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì lại cất luôn điều họ đã có nữa. 13 Vậy nên ta phán thí dụ cùng chúng; vì họ xem mà không thấy, lắng tai mà không nghe, và không hiểu chi hết. 14 Vậy, về họ, đã được ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai rằng:
 Các ngươi sẽ lóng tai nghe, mà chẳng hiểu chi;
 Lấy mắt xem mà chẳng thấy chi.
15 Vì lòng dân nầy đã cứng cỏi;
 Đã làm cho nặng tai
 Và nhắm mắt mình lại,
 E khi mắt mình thấy được,
 Tai mình nghe được,
 Lòng mình hiểu được,
 Họ tự hối cải lại,
 Và ta chữa họ được lành chăng.
16 Nhưng phước cho mắt các ngươi vì thấy được; phước cho tai các ngươi, vì nghe được! 17 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, có nhiều đấng tiên tri, nhiều người công chính đã ước ao thấy điều các ngươi thấy, mà chẳng được thấy; ước ao nghe điều các ngươi nghe, mà chẳng được nghe.
18 Ấy vậy, các ngươi hãy nghe nghĩa ví dụ về kẻ gieo giống là gì. 19 Khi người nào nghe đạo nước thiên đàng, mà không hiểu, thì quỉ dữ đến cướp điều đã gieo trong lòng mình; ấy là kẻ chịu lấy hột giống rơi ra dọc đàng. 20 Người nào chịu lấy hột giống nơi đất đá sỏi, tức là kẻ nghe đạo, liền vui mừng chịu lấy; 21 song trong lòng không có rễ, chỉ tạm thời mà thôi, đến khi vì đạo mà gặp sự cực khổ, sự bắt bớ, thì liền vấp phạm. 22 Kẻ nào chịu lấy hột giống nơi bụi gai, tức là kẻ nghe đạo; mà sự lo lắng về đời nầy, và sự mê đắm về của cải, làm cho nghẹt ngòi đạo và thành ra không kết quả. 23 Song, kẻ nào chịu lấy hột giống nơi đất tốt, tức là kẻ nghe đạo và hiểu; người ấy được kết quả đến nỗi một hột ra một trăm, hột khác sáu chục, hột khác ba chục.
24 Đức Chúa Jêsus phán ví dụ khác cùng chúng rằng: Nước thiên đàng giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Nhưng đương khi người ta ngủ, thì kẻ thù chủ ruộng liền đến, gieo cỏ lùng vào trong lúa mì, rồi đi. 26 Đến khi lúa mì lớn lên, và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lòi ra. 27 Các đầy tớ của chủ nhà bèn đến thưa rằng: Thưa chủ, chủ không gieo giống tốt trong ruộng chủ sao? Vậy thì cỏ lùng bởi đâu mà ra? 28 Chủ đáp rằng: Ấy là một kẻ thù đã làm điều đó. Các đầy tớ thưa rằng: Vậy chủ có muốn chúng tôi đi nhổ cỏ đó chăng? 29 Chủ rằng: Chẳng nên, e khi nhổ cỏ lùng, hoặc các ngươi nhổ lộn lúa mì đi chăng. 30 Hãy để cho cả hai thứ cùng lớn lên cho đến mùa gặt; đến mùa gặt, ta sẽ dặn con gặt rằng: Trước hết hãy nhổ cỏ lùng, bó lại từng bó mà đốt đi; song hãy thâu trữ lúa mì vào kho ta.
31 Ngài lấy ví dụ khác mà phán rằng: Nước thiên đàng giống như một hột cải mà người kia lấy gieo trong ruộng mình; 32 hột ấy thật nhỏ hơn cả các giống khác, song khi đã mọc lên, thì lớn hơn các thứ rau, và trở nên cây cối, cho đến nỗi chim trời tới làm ổ trên nhành nó được.
33 Ngài lấy ví dụ khác nữa mà phán rằng: Nước thiên đàng giống như men mà người đàn bà kia lấy trộn vào trong ba đấu bột, cho đến chừng nào bột dậy cả lên.
34 Đức Chúa Jêsus lấy lời ví dụ mà phán những điều đó cùng đoàn dân, Ngài chẳng phán điều gì cùng họ mà không dùng lời ví dụ, 35 để được ứng nghiệm lời đấng tiên tri rằng:
 Ta sẽ mở miệng ra mà nói lời ví dụ,
 Ta sẽ rao bảo những điều kín nhiệm từ khi dựng nên trời đất.
36 Bấy giờ, Đức Chúa Jêsus cho chúng về, rồi vào nhà; môn đồ đến gần mà hỏi Ngài rằng: Xin thầy giải lời ví dụ về cỏ lùng trong ruộng cho chúng tôi. 37 Ngài đáp rằng: Kẻ gieo giống tốt, là Con người; 38 ruộng, là thế gian; giống tốt, là con cái nước thiên đàng; cỏ lùng, là con cái quỉ dữ; 39 kẻ nghịch thù gieo cỏ ấy, là ma quỉ; mùa gặt, là ngày tận thế; con gặt, là các thiên sứ. 40 Còn người ta nhổ cỏ lùng mà đốt trong lửa thể nào, thì ngày tận thế cũng sẽ như vậy; 41 Con người sẽ sai các thiên sứ Ngài thâu mọi gương xấu và những kẻ làm ác khỏi nước Ngài, 42 và quăng những người đó vào lò lửa, là nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng. 43 Khi ấy, những người công bình sẽ chói rạng như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai, hãy nghe!
44 Nước thiên đàng giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu đi, vui mừng mà trở về, bán hết gia tài mình, mua đám ruộng đó.
45 Nước thiên đàng lại giống như một người lái buôn kiếm ngọc châu tốt, 46 khi đã tìm được một hột châu quí giá, thì đi bán hết gia tài mình mà mua hột châu đó.
47 Nước thiên đàng cũng giống như một tay lưới thả xuống biển, bắt đủ mọi thứ cá. 48 Khi lưới được đầy rồi, thì người đánh cá kéo lên bờ; đoạn, ngồi mà chọn giống tốt để riêng ra, đem bỏ vào rổ, còn giống xấu thì ném đi. 49 Đến ngày tận thế cũng như vậy: Các thiên sứ sẽ đến và chia kẻ ác với người công bình ra, 50 ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.
51 Các ngươi có hiểu mọi điều đó chăng? Các môn đồ thưa rằng: Có hiểu. 52 Ngài bèn phán rằng: Vì cớ ấy, mọi thầy thông giáo đã học thông đạo về nước thiên đàng, thì giống như một người chủ nhà kia, đem những vật mới và cũ ở trong kho mình ra.

Chúa về Na-xa-rét

(Mac 6:1-6; Lu 4:16-30)

53 Đức Chúa Jêsus phán các lời ví dụ ấy rồi, thì đi khỏi chỗ đó. 54 Ngài về đến quê hương, rồi dạy dỗ trong nhà hội, đến nỗi ai nghe cũng lấy làm lạ, mà nói rằng: Bởi đâu mà người nầy được khôn ngoan và những phép lạ nầy? 55 Có phải là con người thợ mộc chăng? Mẹ người có phải là Ma-ri, và anh em người là Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn, Giu-đe chăng? 56 Chị em người đều ở giữa chúng ta chăng? Bởi đâu mà người nầy được mọi điều ấy như vậy? 57 Họ bèn vì cớ Ngài mà vấp phạm. Song Đức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Đấng tiên tri chỉ bị trong xứ mình và người nhà mình khinh dể mà thôi. 58 Ở đó, Ngài không làm nhiều phép lạ, vì chúng không có lòng tin.

13

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Pô Sai Pơjĕh

(Markôs 4:1-9; Luk 8:4-8)

1Amăng hrơi anŭn mơ̆n, Yêsu tơbiă mơ̆ng sang hăng nao dŏ be̱r pơ ha̱ng ia dơnao prŏng kiăng kơ pơtô. 2Hơmâo ƀing mơnuih lu rai pơtŭm jum dar Yêsu, tơl Ñu đĭ dŏ be̱r amăng sŏng laih anŭn ƀing mơnuih lu dŏ dơ̆ng ƀơi ha̱ng ia anŭn. 3Giŏng anŭn, Ñu yua tơlơi pơhơmutu kiăng kơ ruai lu tơlơi kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơmâo sa čô mơnuih sai nao sai pơjĕh pơdai ñu. 4Tơdang ñu sai, đơđa pơjĕh pơdai lê̆ ƀơi tơlo̱ng jơlan, khul čim brĭm rai čŏh ƀơ̆ng hĭ. 5Hơmâo đơđa pơjĕh pơkŏn dơ̆ng lê̆ amăng anih lŏn rơga, jing anih pơtâo hơmâo lŏn ƀiă đôč. Pơjĕh anŭn đăh čăt đĭ mơtam yuakơ lŏn đêl đôč. 6Samơ̆ tơdang yang hrơi pơiă pơčrang, hơdôm anăh anŭn gliu hĭ mơtam yơh yuakơ ƀu hơmâo akha dơlăm ôh. 7Hơmâo đơđa pơjĕh pơkŏn dơ̆ng lê̆ amăng anih khul rơ̆k drơi laih anŭn rơ̆k drơi anŭn čăt đĭ hrŏm hăng anăh pơdai hăng ket hĭ anăh anŭn. 8Ăt hơmâo đơđa pơjĕh pơkŏn dơ̆ng lê̆ amăng anih lŏn hiam; pơjĕh pơdai anŭn čăt đĭ laih anŭn pơtơbiă rai boh lu yơh; đơđa pơjĕh pơtơbiă rai sa-rơtuh sar, đơđa nămpluh sar laih anŭn đơđa klâopluh sar.”
9Laih anŭn Yêsu klah čŭn tui anai, “Hlơi pô amăng ƀing gih hơmâo tơngia kiăng kơ hơmư̆, brơi ñu pơđi̱ng hơmư̆ bĕ.”

Tơhơnal Tơlơi Yêsu Yua Tơlơi Pơhơmutu

(Markôs 4:10-12; Luk 8:9, 10)

10Giŏng anŭn, ƀing ding kơna Yêsu rai pơ Ñu hăng tơña tui anai, “Yua hơget Ih yua tơlơi pơhơmutu kiăng pơhiăp hăng ƀing mơnuih lu lĕ?”
11Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kơ ƀing gih yơh Ơi Adai hơmâo brơi laih tơlơi dưi thâo hluh kơ tơlơi bruă yom hơgŏm kơ Dêh Čar Ơi Adai, samơ̆ kơ ƀing pơkŏn, Ñu ƀu brơi ôh. 12Kâo laĭ tui anŭn yuakơ hlơi pô hơmâo thâo hluh laih, Ơi Adai či pha brơi ñu thâo hluh lu hloh dơ̆ng, samơ̆ hlơi pô ƀu hơmâo thâo hluh ôh, wơ̆t dah hơget tơlơi ñu pơmĭn ñu hơmâo thâo hluh laih, Ơi Adai ăt či mă pơđuaĭ hĭ mơ̆ng ñu mơ̆n. 13Yuakơ tơhơnal tơlơi anŭn yơh, Kâo pơhiăp hăng ƀing gơñu amăng tơlơi pơhơmutu tui anai:
  “Wơ̆t tơdah ƀing gơñu lăng samơ̆ ƀing gơñu ƀu ƀuh ôh,
   ƀing gơñu pơđi̱ng tơngia hơmư̆ samơ̆ ƀing gơñu ƀu hơmư̆ ôh kŏn thâo hluh lơi.
14“Anŭn yơh kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng Ơi Adai pơhiăp laih amăng tơlơi laĭ lui hlâo pô pơala Yesayah hơmâo laĭ laih tui anai:
  “ ‘Ƀing mơnuih rơnŭk anai či pơđi̱ng tơngia hơmư̆ samơ̆ ƀing gơñu ƀu či thâo hluh dơ̆ng tah,
   laih anŭn ƀing gơñu či lăng hăng mơta gơñu samơ̆ ƀing gơñu ƀu či thâo ƀuh dơ̆ng tah.
  15Tơlơi anŭn jing sĭt yơh yuakơ jua pơmĭn ƀing mơnuih rơnŭk anai jing hĭ bĭl laih,
   laih anŭn ƀing gơñu hơmâo pơtơngĭl hĭ laih tơngia gơñu,
   laih anŭn pĭt hĭ mơta gơñu.
  Ƀing gơñu huĭ tơdah mơta gơñu thâo ƀuh,
   laih anŭn tơngia gơñu thâo hơmư̆
   laih anŭn jua pơmĭn gơñu thâo hluh,
   tui anŭn ƀing gơñu či kiăng wơ̆t glaĭ pơ Kâo laih anŭn kiăng kơ Kâo pơsuaih brơi hĭ kơ ƀing gơñu.’ ”
16Yêsu pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Samơ̆ bơ kơ ƀing gih, mơyŭn hiam yơh yuakơ mơta gih thâo ƀuh laih anŭn tơngia gih thâo hơmư̆. 17Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, hơmâo lu ƀing pô pơala laih anŭn ƀing mơnuih tơpă hơnơ̆ng kiăng ƀuh hơdôm tơlơi ƀing gih ƀuh ră anai, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi ƀuh ôh. Ƀing gơñu kiăng hơmư̆ biă mă hơdôm tơlơi ƀing gih hơmư̆ ră anai, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi hơmư̆ ôh.”

Yêsu Pơblang Tơlơi Pơhơmutu Pô Sai Pơjĕh

(Markôs 4:13-20; Luk 8:11-15)

18Yêsu pơblang tŏ tui dơ̆ng tui anai, “Tui anŭn, brơi kơ ƀing gih pơđi̱ng hơmư̆ bĕ tơlơi kiăng laĭ amăng tơlơi pơhơmutu pô sai pơjĕh anai. 19Ƀing mơnuih hơmư̆ tơlơi pơtô pơblang kơ ƀing gơñu kơ tơlơi dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai samơ̆ hơngah ƀu thâo hluh ôh jing hrup hăng pơjĕh lê̆ ƀơi tơlo̱ng jơlan. Yang sat Satan rai suăk mă hĭ hơdôm tơlơi arăng sai laih amăng jua pơmĭn gơñu. 20Pơjĕh pơdai lê̆ ƀơi anih lŏn rơga, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih mơak tŭ mă mơtam yơh tơdang ƀing gơñu hơmư̆ laih boh hiăp anŭn. 21Samơ̆ hrup hăng anăh pơjĕh anŭn yơh, ƀing gơñu ƀu hơmâo akha kơjăp ôh. Yuakơ anŭn yơh, ƀing gơñu kơnơ̆ng đaŏ amăng ƀiă hrơi đôč laih anŭn ƀing gơñu hơngah lui hĭ mơtam yơh tơdang tơlơi tơnap tap laih anŭn tơlơi kơpĭ kơpe̱t truh. 22Bơ kơ pơjĕh pơdai lê̆ ƀơi anih rơ̆k drơi, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih hơmư̆ laih boh hiăp Ơi Adai, samơ̆ tơlơi ƀlơ̆ng bơngơ̆t amăng lŏn tơnah laih anŭn tơlơi amoaih kluh kơ pơdrŏng săh ket hĭ boh hiăp anŭn tơl boh hiăp anŭn ƀu pơtơbiă rai boh čroh ôh. 23Bơ kơ khul pơjĕh pơdai lê̆ ƀơi lŏn hiam, jing tơlơi pơhơmutu kơ ƀing mơnuih hơmư̆ boh hiăp Ơi Adai laih anŭn thâo hluh. Sĭt yơh, ƀing gơñu ăt pơtơbiă rai mơ̆n boh čroh hrup hăng pơjĕh pơdai pơtơbiă rai đơđa sa-rơtuh, đơđa nămpluh laih anŭn đơđa klâopluh wơ̆t lu hloh kơ pơjĕh hơmâo sai laih hlâo adih.”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Rơ̆k Amăng Hơma Pơdai Kơtor

24Yêsu pơtô kơ ƀing gơñu sa tơlơi pơhơmutu pơkŏn dơ̆ng hăng laĭ tui anai, “Tơlơi pơkăh pơpha ƀing ană plei ƀlŏr mơ̆ng ƀing ană plei sĭt amăng rơnŭk Dêh Čar Ơi Adai kar hăng sa čô mơnuih hơmâo sai pơjĕh pơdai kơtor hiam amăng hơma ñu. 25Hơmâo sa mlam, tơdang rĭm čô hlak dŏ pĭt, ayăt ñu rai klĕ sai hĭ pơjĕh rơ̆k amăng hơma pơdai pô anŭn laih anŭn đuaĭ hĭ. 26Tơdang hơdôm pơjĕh pơdai anŭn đăh čăt đĭ glông laih anŭn hrŏh, rơ̆k anŭn ăt đăh čăt đĭ glông hăng hơmâo bơnga mơ̆n.
27“Ƀing ding kơna pô khua hơma anŭn rai ruai kơ khua gơñu tui anai, ‘Ơ khua ăh, ƀu djơ̆ ôh hă ih sai pơjĕh pơdai hiam amăng hơma ih? Tui anŭn, mơ̆ng pă phŭn rơ̆k anŭn tơbiă rai lĕ?’
28“Khua gơñu laĭ glaĭ, ‘Pô rŏh ayăt yơh ngă tơlơi anŭn.’ Tui anŭn, ƀing ding kơna ñu tơña kơ ñu, ‘Ih kiăng mơ̆ kơ ƀing gơmơi nao buč hĭ hơdôm rơ̆k anŭn?’
29“Khua gơñu laĭ glaĭ tui anai, ‘Ơ ơh, anăm buč hĭ ôh. Huĭ kơ tơdang ƀing gih buč đuaĭ rơ̆k, ƀing gih ăt či buč djơ̆ hrŏm hăng pơdai kơtor mơ̆n. 30Lui brơi bĕ pơdai laih anŭn rơ̆k anŭn glông hrŏm hlŏng truh kơ bơyan hơpuă. Tui anŭn, kâo či pơđar kơ ƀing hơpuă nao buč pơƀut glaĭ hĭ hơdôm rơ̆k hăng akă jing hĭ lu čơnap kiăng kơ čuh hĭ hăng apui hlâo kơ nao hơpuă pơƀut glaĭ pơdai hăng pioh amăng atông kâo.’ ”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Sa Djuai Pơjĕh Añăm Hơbơi Prŏng

(Markôs 4:30-32; Luk 13:18, 19)

31Yêsu ruai kơ ƀing gơñu tơlơi pơhơmutu pơkŏn dơ̆ng hăng laĭ tui anai, “Tơlơi lar prŏng tui Dêh Čar Ơi Adai či jing kar hăng pơjĕh añăm hơbơi, jing pơjĕh sa čô mơnuih mă sai amăng hơma ñu yơh. 32Tơdah pơhơmu hăng pơjĕh pơkŏn, pơjĕh añăm hơbơi anŭn jing anet hloh kơ abih bang pơjĕh pơkŏn yơh; samơ̆ tơdang pơjĕh anŭn đăh glông tui, ñu prŏng hloh kơ añăm tăm pơkŏn laih anŭn jing kar hăng kơyâo. Tui anŭn, khul čim brĭm pŏr rai găm mơñam hruh gơñu amăng hla than añăm hơbơi anŭn yơh.”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Tơpơi

(Luk 13:20, 21)

33Yêsu ruai kơ ƀing gơñu tơlơi pơhơmutu pơkŏn dơ̆ng hăng laĭ tui anai, “Tơlơi lar prŏng tui Dêh Čar Ơi Adai ăt či jing hrup hăng ƀiă tơpơi sa čô đah kơmơi mă lŭk amăng klâo bai anet tơpŭng kiăng kơ pơkra ƀañ, samơ̆ abih bang tơpŭng anŭn bô̱̆ đĭ yơh.”

Tơlơi Yêsu Kiăng Laĭ Kơ Tơlơi Pơhơmutu

(Markôs 4:33, 34)

34Yêsu pơhiăp abih bang tơlơi pơtô anŭn hăng ƀing mơnuih lu anŭn kơnơ̆ng hăng tơlơi pơhơmutu đôč yơh; Ñu ƀu či yua tơlơi pơkŏn ôh rơngiao kơ tơlơi pơhơmutu. 35Ñu ngă tui anŭn kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng boh hiăp Ơi Adai mơ̆ng pô pơala tui anai,
  “Kâo či ha̱ amăng bah kâo pơtô hăng tơlơi pơhơmutu;
   Kâo či ră ruai kơ ƀing gơñu hơdôm tơlơi hơgŏm čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi Ñu hrih pơjing kơ lŏn tơnah yơh.”

Yêsu Pơblang Tơlơi Pơhơmutu Kơ Rơ̆k Amăng Hơma Pơdai Kơtor

36Tơdang Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing mơnuih lu anŭn, Ñu mŭt nao amăng sang. Ƀing ding kơna Ñu rai hăng rơkâo tui anai, “Ơ Khua ăh, rơkâo kơ Ih pơblang brơi kơ ƀing gơmơi tơlơi pơhơmutu kơ rơ̆k amăng hơma anŭn.”
37Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu, “Pô sai pơjĕh hiam anŭn jing Kâo, jing Ană Mơnuih yơh. 38Hơma anŭn pơhơmutu kơ lŏn tơnah, pơjĕh hiam anŭn pơhơmutu kơ ƀing ană plei Dêh Čar Ơi Adai. Rơ̆k anŭn pơhơmutu kơ ƀing ană plei lŏm kơ Pô sat ƀai yơh; 39laih anŭn pô rŏh ayăt sai pơjĕh rơ̆k anŭn jing pơhơmutu kơ yang sat Satan anŭn yơh. Bơyan hơpuă anŭn jing pơhơmutu kơ hrơi đŭt lŏn tơnah anai laih anŭn ƀing hơpuă pơdai kơtor anŭn jing pơhơmutu kơ ƀing ling jang hiam Ơi Adai yơh.
40“Tui anŭn, tơlơi či truh ƀơi hrơi đŭt lŏn tơnah ăt či hrup hăng tơlơi arăng buč rơ̆k laih anŭn čuh hĭ amăng apui mơ̆n. 41Kâo, jing Ană Mơnuih, či pơkiaŏ rai ƀing ling jang hiam Kâo, tui anŭn ƀing gơñu či pơƀut mă pơđuaĭ hĭ mơ̆ng djŏp djang anih amăng Dêh Čar Kâo abih bang ƀing hlơi pô pơsoh hĭ arăng wơ̆t hăng abih bang ƀing hlơi pô ngă tơlơi soh sat mơ̆n, 42laih anŭn glŏm hĭ ƀing soh sat anŭn amăng apui prŏng. Amăng anih anŭn yơh, ƀing gơñu či čŏk hia hăng kĕ tơgơi yơh. 43Giŏng anŭn, ƀing mơnuih tơpă hơnơ̆ng či pơčrang rơđah kar hăng yang hrơi amăng Dêh Čar Hlŏng Lar Ama gơñu. Hlơi pô amăng ƀing gih hơmâo tơngia kiăng kơ hơmư̆, brơi kơ ñu pơđi̱ng hơmư̆ bĕ.”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Dram Gơnam Yom Biă Mă

44Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Tơlơi dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai jing yom biă mă kar hăng gơnam yom biă mă arăng dơ̱r amăng sa boh hơma. Tơdang sa čô mơnuih hơduah ƀuh laih, ñu dơ̱r pơdŏp hĭ dơ̆ng; tui anŭn, ñu mơak mơai wơ̆t glaĭ pơ sang hăng sĭ hĭ abih bang dram gơnam ñu hơmâo, laih anŭn ñu nao blơi mă hơma anŭn yơh.”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Añŭ Plĕr Yom Biă Mă

45Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Laih anŭn dơ̆ng, tơlơi dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai ăt jing yom biă mă yơh kar hăng sa čô mơnuih sĭ mơnia nao hơduah añŭ plĕr hiam biă mă. 46Tơdang ñu hơduah ƀuh laih sa ară añŭ plĕr yom biă mă, ñu wơ̆t glaĭ pơ sang hăng sĭ hĭ abih gơnam ñu hơmâo laih anŭn nao blơi añŭ anŭn mơtam.”

Tơlơi Pơhơmutu Kơ Jal

47Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Tơlơi pơkăh pơpha ƀing mơnuih sat ƀai mơ̆ng ƀing ană plei hiam klă amăng rơnŭk Dêh Čar Ơi Adai hrup hăng sa blah jal ƀing trah akan trah trŭn amăng ia dơnao laih anŭn hrui mă ba djŏp mơta akan yơh. 48Tơdang jal anŭn bă laih, ƀing trah anŭn dui jal anŭn nao pơ ha̱ng. Giŏng anŭn, ƀing gơñu dŏ be̱r ruah mă pơkăh pơpha akan hiam mơ̆ng akan sat. Ƀing gơñu pioh akan hiam amăng bai laih anŭn glŏm lui hĭ akan sat. 49Amăng hrơi đŭt lŏn tơnah ăt či hơmâo tơlơi truh hrup hăng anŭn mơ̆n. Ƀing ling jang hiam Ơi Adai či trŭn rai pơkăh pơpha hĭ ƀing mơnuih sat ƀai mơ̆ng ƀing mơnuih hiam klă, 50laih anŭn glŏm hĭ ƀing mơnuih sat anŭn amăng apui prŏng. Amăng anih anŭn, ƀing gơñu či čŏk hia laih anŭn kĕ tơgơi yơh.”

Tơlơi Sĭt Phrâo Hăng Tơlơi Sĭt So

51Giŏng anŭn, Yêsu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih thâo hluh mơ̆ abih bang tơlơi pơhơmutu anŭn?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Ơ, thâo hluh yơh.”
52Tui anŭn, Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu dơ̆ng, “Hơnŭn yơh, tơlơi pơtô anŭn kiăng laĭ, rĭm čô hlơi pô jing nai pơtô Tơlơi Juăt laih anŭn hrăm hăng đuaĭ tui tơlơi pơtô kơ Dêh Čar Ơi Adai, ñu anŭn dưi pơtô tơlơi so hăng tơlơi phrâo hrup hăng sa čô khua sang ba tơbiă gơnam phrâo laih anŭn gơnam so mơ̆ng anih pioh gơnam yom ñu yơh.”

Plei Nazaret Hơngah Lui Hĭ Yêsu

(Markôs 6:1-6; Luk 4:16-30)

53Tơdang Yêsu pơtô giŏng laih hơdôm tơlơi pơhơmutu anŭn, Ñu đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn. 54Ñu wơ̆t glaĭ pơ plei Ñu pô laih anŭn čơdơ̆ng pơtô kơ ană plei amăng sang pơjơnum. Lu mơnuih hơmư̆ tơlơi Ñu pơtô hli̱ng hla̱ng biă mă. Tui anŭn, ƀing gơñu pơtơña tơdruă gơñu tui anai, “Mơ̆ng pă pô anai mă tŭ tơlơi rơgơi laih anŭn tơlơi dưi mơyang anai lĕ? 55Ƀu djơ̆ ôh hă, Ñu jing ană đah rơkơi pô trah kơyâo? Ƀu djơ̆ ôh hă, HʼMari jing amĭ Ñu laih anŭn ƀing adơi Ñu jing Yakơ, Yôsêp, Simôn laih anŭn Yudas? 56Ƀu djơ̆ ôh hă, ƀing adơi đah kơmơi Ñu ăt hơdip hrŏm hơbĭt hăng ƀing ta? Tui anŭn, mơ̆ng pă Ñu mă abih bang tơlơi anŭn lĕ?” 57Tui anŭn, ƀing gơñu hơngah lui hĭ Ñu yơh.
 Samơ̆ Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu, “Arăng amăng djŏp djang anih pơpŭ pơyom kơ sa čô pô pơala yơh, samơ̆ kơnơ̆ng ƀing mơnuih amăng plei ñu pô laih anŭn amăng sang anŏ ñu pô đôč yơh ƀu pơpŭ pơyom ôh kơ ñu.”
58Yuakơ ƀing gơñu ƀu đaŏ ôh kơ Yêsu, tui anŭn Ñu ƀu ngă lu tơlơi mơsêh mơyang ôh pơ anih anŭn.