26

Sự đau đớn, chết và sống lại của Đức Chúa Jêsus

(Từ đoạn 26:1 đến đoạn 28:20)

Sự lập mưu của các thầy tế lễ

(Mac 14:1,2; Lu 22:1,2; Gi 11:45-53)

1 Vả, Đức Chúa Jêsus đã phán những lời ấy xong rồi, thì phán cùng môn đồ rằng: 2 Các ngươi biết rằng còn hai ngày nữa thì đến lễ Vượt qua, và Con người sẽ bị nộp để chịu đóng đinh trên cây thập tự.
3 Bấy giờ các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân nhóm lại trong tòa thầy cả thượng phẩm tên là Cai-phe; 4 và bàn với nhau dùng mưu chước gì đặng bắt Đức Chúa Jêsus mà giết. 5 Song họ nói rằng: Không nên làm trong ngày lễ, e trong dân chúng sanh ra điều xào xạc chăng.

Chúa chịu xức dầu tại Bê-tha-ni

(Mac 14:3-9; Gi 12:1-8)

6 Khi Đức Chúa Jêsus ở làng Bê-tha-ni, tại nhà Si-môn là người phung, 7 có một người đàn bà cầm cái chai bằng ngọc trắng đựng dầu thơm quí giá lắm, đến gần mà đổ trên đầu Ngài đương khi ngồi ăn. 8 Môn đồ thấy vậy, giận mà trách rằng: Sao phí của như vậy? 9 Dầu nầy có thể bán được nhiều tiền và lấy mà bố thí cho kẻ nghèo nàn. 10 Đức Chúa Jêsus biết điều đó, bèn phán cùng môn đồ rằng: Sao các ngươi làm khó cho người đàn bà đó? Người đã làm việc tốt cho ta; 11 vì các ngươi thường có kẻ nghèo ở cùng mình, song sẽ không có ta ở cùng luôn luôn. 12 Người đổ dầu thơm trên mình ta là để sửa soạn chôn xác ta đó. 13 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin lành nầy được giảng ra, thì cũng thuật lại việc người ấy đã làm để nhớ đến người.

Đứa phản Chúa

(Mac 14:10,11; Lu 22:3-6)

14 Bấy giờ có một người trong mười hai sứ đồ, tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, đến tìm các thầy tế lễ cả, 15 mà nói rằng: Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục bạc. 16 Từ lúc đó, nó tìm dịp tiện để nộp Đức Chúa Jêsus.

Sự lập lễ Tiệc thánh

(Mac 14:12-21; Lu 22:7-13,21-23; Gi 13:21-30)

17 Trong ngày thứ nhứt ăn bánh không men, môn đồ đến gần Đức Chúa Jêsus mà thưa rằng: Thầy muốn chúng tôi dọn cho thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu? 18 Ngài đáp rằng: Hãy vào thành, đến nhà một người kia, mà nói rằng: Thầy nói: Giờ ta gần đến; ta và môn đồ ta sẽ giữ lễ Vượt qua trong nhà ngươi. 19 Môn đồ làm y như lời Đức Chúa Jêsus đã dạy mà dọn lễ Vượt qua.
20 Đến tối, Ngài ngồi ăn với mười hai sứ đồ. 21 Khi đương ăn, Ngài phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi rằng: Có một người trong các ngươi sẽ phản ta. 22 Các môn đồ lấy làm buồn bực lắm, và lần lượt hỏi Ngài rằng: Lạy Chúa, có phải tôi không? Ngài đáp rằng: 23 Kẻ nào để tay vào mâm với ta, ấy là kẻ sẽ phản ta. 24 Con người đi, y theo lời đã chép về Ngài; song khốn nạn thay cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn! 25 Giu-đa là kẻ phản Ngài cất tiếng hỏi rằng: Thưa thầy, có phải tôi chăng? Ngài phán rằng: Thật như ngươi đã nói.
26 Khi đương ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta. 27 Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi; 28 vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội. 29 Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta.

Lời bảo trước cho Phi-e-rơ

(Mac 14:27-31; Lu 22:31-34; Gi 13:36-38)

30 Khi đã hát thơ thánh rồi, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đi ra mà lên núi Ô-li-ve. 31 Ngài bèn phán rằng: Đêm nay các ngươi sẽ đều vấp phạm vì cớ ta, như có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì chiên trong bầy sẽ bị tan lạc. 32 Song sau khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi. 33 Phi-e-rơ cất tiếng thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy. 34 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần. 35 Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu. Hết thảy môn đồ đều nói y như vậy.

Vườn Ghết-sê-ma-nê. – Đức Chúa Jêsus bị bắt

(Mac 14:32-50; Lu 22:39-53 – Gi 18:3-12)

36 Rồi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đến một chỗ kêu là Ghết-sê-ma-nê. Ngài phán rằng: Hãy ngồi đây đợi ta đi cầu nguyện đằng kia. 37 Đoạn, Ngài bèn đem Phi-e-rơ và hai người con của Xê-bê-đê đi với mình, tức thì Ngài buồn bực và sầu não lắm. 38 Ngài bèn phán: Linh hồn ta buồn bực cho đến chết; các ngươi hãy ở đây và tỉnh thức với ta. 39 Rồi Ngài bước tới một ít, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện rằng: Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi Con! Song không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha. 40 Kế đó, Ngài trở lại với môn đồ, thấy đang ngủ, thì Ngài phán cùng Phi-e-rơ rằng: Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ được! 41 Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối. 42 Ngài lại đi lần thứ hai, mà cầu nguyện rằng: Cha ơi! Nếu chén nầy không thể lìa khỏi Con được mà Con phải uống, thì xin ý Cha được nên. 43 Ngài trở lại nữa, thì thấy môn đồ còn ngủ; vì mắt họ đã đừ quá rồi. 44 Đoạn, Ngài bỏ họ lại mà đi cầu nguyện lần thứ ba, và lặp xin như lời trước. 45 Rồi Ngài đi đến với môn đồ, mà phán rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! Nầy, giờ đã gần tới, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ có tội. 46 Hãy chờ dậy, đi hè, kìa kẻ phản ta đến kia.
47 Khi Ngài còn đương phán, xảy thấy Giu-đa là một người trong mười hai sứ đồ đến với một bọn đông người cầm gươm và gậy, mà các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân đã sai đến. 48 Đứa phản Ngài đã trao cho bọn đó dấu nầy: Người nào mà tôi sẽ hôn, ấy là người đó, hãy bắt lấy. 49 Tức thì Giu-đa đến gần Đức Chúa Jêsus, mà rằng: Chào thầy! Rồi hôn Ngài. 50 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán cùng nó rằng: Bạn ơi! Vậy thì vì việc nầy mà ngươi đến đây sao? Rồi chúng nó đến gần tra tay bắt Đức Chúa Jêsus.
51 Và nầy, có một người trong những người ở với Đức Chúa Jêsus giơ tay rút gươm ra, đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém đứt một cái tai của người. 52 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy nạp gươm vào vỏ; vì hễ ai cầm gươm thì sẽ bị chết vì gươm. 53 Ngươi tưởng ta không có thể xin Cha ta lập tức cho ta hơn mười hai đạo thiên sứ sao? 54 Nếu vậy, thế nào cho ứng nghiệm lời Kinh thánh đã chép rằng việc nầy tất phải xảy đến? 55 Lúc bấy giờ, Đức Chúa Jêsus phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến mà bắt ta, khác nào như ta là kẻ cướp. Ta thường ngày ngồi trong đền thờ và giảng dạy tại đó, mà các ngươi không bắt ta. 56 Nhưng mọi điều ấy phải xảy đến, hầu cho những lời các đấng tiên tri đã chép được ứng nghiệm. Khi ấy, hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà trốn đi.

Đức Chúa Jêsus ở trước mặt Cai-phe. – Phi-e-rơ chối Chúa

(Mac 14:53-72; Lu 22:54-71; Gi 18:15-27)

57 Những kẻ đã bắt Đức Chúa Jêsus đem Ngài đến nhà thầy cả thượng phẩm Cai-phe, tại đó các thầy thông giáo và các trưởng lão đã nhóm lại. 58 Phi-e-rơ theo Ngài xa xa cho đến sân của thầy cả thượng phẩm, vào ngồi với các kẻ canh giữ đặng coi việc ấy ra làm sao.
59 Bấy giờ các thầy tế lễ cả và cả tòa công luận kiếm chứng dối về Ngài, cho được giết Ngài. 60 Dầu có nhiều người làm chứng dối có mặt tại đó, song tìm không được chứng nào cả. Sau hết, có hai người đến, 61 nói như vầy: Người nầy đã nói: Ta có thể phá đền thờ của Đức Chúa Trời, rồi dựng lại trong ba ngày. 62 Thầy cả thượng phẩm bèn đứng dậy mà nói với Ngài rằng: Những người nầy làm chứng mà kiện ngươi, ngươi không thưa lại gì sao? 63 Nhưng Đức Chúa Jêsus cứ làm thinh. Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng? 64 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống. 65 Thầy cả thượng phẩm bèn xé áo mình mà nói rằng: Nó đã nói phạm thượng; chúng ta còn cần gì người làm chứng nữa sao? Các ngươi vừa nghe lời phạm thượng đó, thì nghĩ làm sao? 66 Chúng trả lời rằng: Nó đáng chết! 67 Họ bèn nhổ trên mặt Ngài, đấm Ngài, lại có kẻ vả Ngài, 68 mà nói rằng: Hỡi Đấng Christ, hãy nói tiên tri đi; cho chúng ta biết ai đánh ngươi.
69 Bấy giờ Phi-e-rơ vẫn ngồi ngoài sân. Có một người đầy tớ gái đến gần, mà nói cùng người rằng: Ngươi cũng là kẻ ở với Jêsus, người Ga-li-lê. 70 Song Phi-e-rơ chối trước mặt chúng mà rằng: Ta không hiểu ngươi nói chi. 71 Khi đi ra ngoài cửa, lại có một đầy tớ gái khác thấy người, bèn nói cùng kẻ ở đó rằng: Người nầy cũng ở với Jêsus, người Na-xa-rét. 72 Song Phi-e-rơ lại chối và thề rằng: Ta chẳng hề biết người ấy. 73 Một chặp nữa, những kẻ ở gần đó đến gần nói với Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng thuộc về đảng ấy, vì tiếng nói của ngươi khai ngươi ra. 74 Người bèn rủa mà thề rằng: Ta không biết người đó đâu! Tức thì gà gáy. 75 Phi-e-rơ nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán rằng: Trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần. Đoạn, người đi ra và khóc lóc cách đắng cay.

26

Tơlơi Hơduah Mơneč Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Yêsu

(Markôs 14:1, 2; Luk 22:1, 2; Yôhan 11:45-53)

1Tơdang Yêsu hơmâo pơgiŏng hĭ laih hơdôm tơlơi pơtô anŭn, Ñu laĭ hăng ƀing ding kơna Ñu tui nai, 2“Kar hăng ƀing gih thâo laih, dŏ dua hrơi dơ̆ng či truh kơ hrơi phet Tơlơi Găn yơh. Laih anŭn, Kâo, jing Ană Mơnuih, arăng či mă jao hĭ Kâo kiăng kơ arăng pŏng pơ kơyâo bơrơkal.”
3Hlak anŭn, ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha ană plei pơjơnum glaĭ pơ sang khua ngă yang prŏng hloh anăn ñu Kaiaphas, 4laih anŭn ƀing gơñu črong sai mơneč kiăng mă hơgŏm hĭ Yêsu laih anŭn pơdjai hĭ. 5Ƀing gơñu pơlaĭ dơ̆ng, “Ƀing ta anăm ngă tơlơi anŭn amăng hrơi phet ôh, huĭ kơ ƀing ană plei či pơrŭng pơrăng.”

Sa Čô Đah Kơmơi Trôč Ia Ƀâo Hiam Kơ Yêsu

(Markôs 14:3-9; Yôhan 12:1-8)

6Tơdang Yêsu hlak dŏ pơ plei Bêthania amăng sang Simôn, jing pô djơ̆ phŭng hlâo adih, 7hơmâo sa čô đah kơmơi djă̱ sa ge̱t pơtâo kô̱̆, amăng ge̱t anŭn hơmâo ia ƀâo hiam yom biă mă, rai jĕ laih anŭn trôč ƀơi akŏ Yêsu tơdang Ñu hlak dŏ ƀơ̆ng huă.
8Ƀing ding kơna ƀuh tui anŭn, ƀing gơñu hil nač laih anŭn pơhiăp pơhoč tui anai, 9“Yua hơget pơhoăč hĭ gơnam anŭn lĕ? Tơdah ƀing ta sĭ ia ƀâo hiam anŭn, ƀing ta dưi sĭ hăng nua prăk yom biă mă, laih anŭn yua prăk anŭn brơi da̱n kơ ƀing ƀun rin.”
10Yêsu thâo krăn kơ tơlơi ƀing gơñu pơhoč anŭn, tui anŭn Ñu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Yua hơget ƀing gih pơhiăp ƀuăh kơ pô đah kơmơi anai lĕ? Ñu hơmâo ngă laih sa mơta bruă hiam kơ Kâo. 11Ƀing gih či hơmâo ƀing ƀun rin nanao yơh, samơ̆ ƀing gih ƀu či hơmâo Kâo dŏ hăng ƀing gih nanao ôh. 12Tơdang ñu trôč ia ƀâo hiam anŭn ƀơi črăn drơi jan Kâo, ñu ngă tơlơi anŭn kiăng prap pre kơ tơlơi arăng či dơ̱r atâo Kâo yơh. 13Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, pơpă anih mơnuih mơnam nao pơtô pơblang kơ Tơlơi Pơthâo Hiam anai kơ Dêh Čar Ơi Adai, sĭt ƀing gơñu ăt či ră ruai glaĭ kơ tơlơi pô đah kơmơi anai ngă laih yơh kiăng kơ lu mơnuih djă̱ hơdơr kơ gơ̆.”

Yudas Tŭ Ư Pơblư̆ Hĭ Yêsu

(Markôs 14:10, 11; Luk 22:3-6)

14Giŏng anŭn, Yudas Iskariôt, jing sa čô amăng pluh-dua čô ding kơna pơjao, nao pơ ƀing khua ngă yang prŏng 15laih anŭn tơña tui anai, “Hơdôm ƀing gih tŭ ư či brơi kơ kâo tơdah kâo jao lui hĭ Yêsu kơ ƀing gih lĕ?” Tui anŭn, ƀing gơñu kla kơ Yudas klâopluh prăk kăk amrăk yơh. 16Čơdơ̆ng mơ̆ng mông anŭn, Yudas hơduah mông găl kiăng kơ jao lui hĭ Yêsu kơ ƀing gơñu yơh.

Yêsu Pơjing Tơlơi Ƀơ̆ng Mơñum Pơgop Hiam Klă

(Markôs 14:12-21; Luk 22:7-13, 21-33; Yôhan 13:21-30)

17Amăng hrơi tal sa kơ hrơi phet Ƀañ Tơpŭng Ƀu Hơmâo Tơpơi, ƀing ding kơna nao pơ Yêsu laih anŭn tơña kơ Ñu tui anai, “Pơpă anih Ih kiăng kơ ƀing gơmơi prap pre gơnam ƀơ̆ng huă kơ hrơi Phet Tơlơi Găn brơi kơ Ih lĕ?”
18Yêsu laĭ glaĭ, “Mŭt nao bĕ amăng plei Yerusalaim pơ sa čô mơnuih Kâo ruai laih hăng ƀing gih laih anŭn laĭ bĕ kơ ñu tui anai, ‘Nai ta kiăng laĭ pơthâo kơ ih tui anai: Mông Kâo jĕ či truh laih; Kâo hăng ƀing ding kơna Kâo či djă̱ hơdơr hrơi phet Tơlơi Găn amăng sang ih.’ ”
19Tui anŭn, ƀing ding kơna ngă tui hăng tơlơi Yêsu hơmâo kơčrâo brơi laih kơ ƀing gơñu kiăng kơ prap pre kơ tơlơi phet Tơlơi Găn.
20Tơdang hrơi klăm truh laih, Yêsu čơdơ̆ng ƀơ̆ng huă hrŏm hăng pluh-dua čô ƀing ding kơna pơjao Ñu. 21Tơdang ƀing gơñu hlak dŏ ƀơ̆ng huă, Yêsu laĭ tui anai, “Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, sa čô amăng ƀing gih či pơblư̆ lui hĭ Kâo.”
22Ƀing ding kơna Ñu bơngơ̆t bơngañ biă mă laih anŭn rĭm čô čơdơ̆ng tơña kơ Yêsu tui anai, “Ơ Khua ăh, ƀu djơ̆ kâo ôh, djơ̆ mơ̆?”
23Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Sa čô amăng ƀing gih, jing ƀing tut ƀañ tơpŭng amăng mŏng anai hrŏm hăng Kâo, ñu anŭn yơh či pơblư̆ lui hĭ Kâo. 24Kâo, jing Ană mơnuih, či djai hĭ yơh tui hăng arăng hơmâo čih lui hlâo laih kơ Kâo amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam. Samơ̆ răm ƀăm yơh kơ pô pơblư̆ hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih anai! Hiam hloh yơh tơdah amĭ ñu ƀu tơkeng rai ôh kơ ñu hlâo adih!”
25Yudas, jing pô jĕ či pơblư̆ lui hĭ Yêsu, pơhiăp hăng Yêsu tui anai, “Ơ Nai ăh, sĭt yơh ƀu djơ̆ kâo ôh, djơ̆ mơ̆?”
 Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu, “Sĭt, ih yơh jing pô anŭn.”

Tơlơi Ƀơ̆ng Pơgop Khua Yang

(Markôs 14:22-26; Luk 22:14-20; 1 Korinthos 11:23-25)

26Tơdang ƀing gơñu hlak dŏ ƀơ̆ng huă, Yêsu mă sa pŏk ƀañ tơpŭng, bơni hơơč, pĕ ƀañ anŭn hăng pơpha brơi kơ ƀing ding kơna Ñu laih anŭn laĭ tui anai, “Mă ƀơ̆ng bĕ; anai jing drơi jan Kâo yơh.”
27Giŏng anŭn, Ñu mă kơčŏk ia boh kơƀâo, bơni hơơč kơ Ơi Adai, brơi kơ ƀing ding kơna Ñu laih anŭn laĭ tui anai, “Abih bang ƀing gih mă mơñum bĕ. 28Ia anai jing drah Kâo, jing drah kơđŏm kơ tơlơi pơgop phrâo, či tuh brơi kơ lu mơnuih kiăng kơ tŭ tơlơi pap brơi kơ tơlơi soh yơh. 29Kâo pơtă kơ ƀing gih, čơdơ̆ng mơ̆ng ră anai truh pơanăp, Kâo ƀu či mơñum ia boh kơƀâo dơ̆ng tah tơl truh hrơi Kâo či mơñum glaĭ ia boh kơƀâo dơ̆ng hăng ƀing gih amăng Dêh Čar Hlŏng Lar Ama Kâo.”
30Giŏng anŭn, ƀing gơñu adoh đơđa Tơlơi Adoh Bơni Hơơč giŏng laih, Yêsu hăng ƀing ding kơna Ñu tơbiă đĭ nao pơ bŏl čư̆ Ôliwơ yơh.

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Pêtrôs Či Hơngah Hĭ Ñu

(Markôs 14:27-31; Luk 22:31-34; Yôhan 13:36-38)

31Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Amăng mlam anai yơh, abih bang ƀing gih či čơlah đuaĭ lui raih hĭ Kâo; Kâo laĭ tui anŭn yuakơ Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam hơmâo pơhiăp laih tui anai:
  “ ‘Kâo či pơdjai hĭ pô wai triu,
   tui anŭn khul triu či čơlah đuaĭ hĭ bru bra yơh.’
32“Samơ̆ tơdơi kơ Ơi Adai pơhơdip glaĭ laih Kâo, Kâo či nao pơ kwar Galilê hlâo kơ ƀing gih yơh.”
33Pêtrôs pơhiăp hăng Yêsu tui anai, “Kâo ƀu či čơlah đuaĭ lui raih hĭ Ih ôh, wơ̆t tơdah abih bang le̱ng kơ čơlah đuaĭ lui raih hĭ Ih.”
34Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Kâo laĭ hăng ih sĭt biă mă, amăng mlam kơñ hlâo kơ mơnŭ tơdjô̆, klâo wơ̆t mơtam yơh ih či hơngah ƀu thâo krăn ôh Kâo.”
35Samơ̆ Pêtrôs laĭ glaĭ tui anai, “Wơ̆t tơdah kâo khŏm či djai hrŏm hăng Ih tŭ mơ̆n, kâo ƀu či hơngah hĭ ôh Ih.” Laih anŭn abih bang ding kơna pơkŏn ăt pơhiăp hrup hăng anŭn mơ̆n.

Yêsu Iâu Laĭ Ƀơi Đang Getsêmani, Jing Đang Kơyâo Ôliwơ

(Markôs 14:32-42; Luk 22:39-46)

36Giŏng anŭn, Yêsu wơ̆t hăng ƀing ding kơna Ñu nao pơ sa boh anih anăn Getsêmani laih anŭn Ñu pơtă tui anai, “dŏ be̱r tơguan bĕ pơ anai tơdang Kâo nao iâu laĭ pơ anŭn.” 37Ñu ăt jak ba Pêtrôs laih anŭn dua čô ană đah rơkơi Zebedai, jing Yakơ hăng Yôhan, nao hrŏm hăng Ñu. Ñu čơdơ̆ng bơngơ̆t bơngañ hăng rơngot hơning biă mă yơh. 38Ñu laĭ hăng ƀing gơñu tui anai, “Jua bơngăt Kâo bơngơ̆t bơngañ kar hăng jĕ či djai yơh. Ƀing gih dŏ krŏng hrŏm hăng Kâo pơ anai hŏ.”
39Ñu rơbat nao pơanăp ƀiă, Ñu bon akŭp ƀô̆ Ñu ƀơi lŏn hăng iâu laĭ, “Ơ Ama ăh, tơdah dưi, rơkâo kơ Ih mă pơđuaĭ hĭ bĕ kơčŏk ruă nuă anai mơ̆ng Kâo! Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀu djơ̆ tui hăng tơlơi Kâo kiăng ôh, samơ̆ tui hăng tơlơi Ih kiăng yơh.”
40Tơdơi kơ anŭn ƀiă, Yêsu wơ̆t glaĭ pơ ƀing ding kơna Ñu, ƀuh ƀing gơñu hlak dŏ pĭt laih anŭn Ñu laĭ kơ Pêtrôs tui anai, “Hiư̆m pă klâo ƀing gih ƀu dưi dŏ krŏng hrŏm hăng Kâo wơ̆t tơdah kơnơ̆ng amăng sa mông đôč ôh hă? 41Dŏ krŏng hrŏm hăng Kâo hăng iâu laĭ bĕ, kiăng kơ ƀing gih ƀu lê̆ ôh amăng tơlơi plư. Jua bơngăt gih kiăng dŏ krŏng biă mă yơh samơ̆ drơi jan gih jing tơdu.”
42Ñu đuaĭ nao dơ̆ng tal dua hăng iâu laĭ tui anai, “Ơ Ama ăh, tơdah Ih ƀu dưi mă pơđuaĭ hĭ ôh kơčŏk ruă nuă anai mơ̆ng Kâo kiăng kơ Kâo ƀu khŏm mơñum ôh, brơi tơlơi Ih kiăng dưi jing bĕ.”
43Tơdơi ƀiă Yêsu wơ̆t glaĭ, sa wơ̆t dơ̆ng Ñu ƀuh ƀing ding kơna hlak dŏ pĭt yuakơ mơta gơñu ñip laih. 44Laih anŭn, Ñu đuaĭ nao dơ̆ng tal klâo laih anŭn iâu laĭ tui hăng hiăp Ñu hơmâo iâu laĭ laih hlâo.
45Giŏng anŭn, Ñu wơ̆t glaĭ pơ ƀing ding kơna laih anŭn laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ră anai ƀing gih ăt dŏ pĭt laih anŭn dŏ pơdơi pơdă hă? Anai nê, mông hơmâo truh laih jing mông arăng či mă jao lui hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih, amăng tơlơi dưi ƀing mơnuih soh yơh. 46Tơgŭ bĕ, brơi ƀing ta nao bĕ. Lăng adih, pô pơblư̆ lui hĭ Kâo truh laih yơh.”

Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Tơlơi Đaŏ Pơkiaŏ Sa Tơpul Mơnuih Lu Rai Mă Yêsu

(Markôs 14:43-50; Luk 22:47-53; Yôhan 18:3-12)

47Tơdang Yêsu ăt hlak dŏ pơhiăp, blĭp blăp Yudas, jing sa čô amăng pluh-dua čô ƀing ding kơna, rai laih anŭn hrŏm hăng ñu hơmâo sa tơpul mơnuih lu djă̱ ba đao hăng gai tơlŏ. Ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha ană plei Yehudah yơh pơkiaŏ rai tơpul mơnuih lu anŭn.
48Hlâo kơ anŭn, pô pơblư̆ jao lui hĭ Yêsu hơmâo pơthâo laih hăng tơpul mơnuih anŭn gru kơnăl anai, “Hlơi pô kâo čum kơkuh, Ñu anŭn yơh Yêsu, mă Ñu bĕ!”
49Yudas rai jĕ pơ Yêsu mơtam hăng laĭ tui anai, “Kơkuh kơ Ih, Nai ăh!” Giŏng anŭn, ñu čum kơkuh Yêsu.
50Yêsu laĭ glaĭ kơ ñu tui anai, “Ơ gơyut ăh, ngă bĕ tui hăng tơlơi kơñăm ih rai anai.”
 Giŏng anŭn, tơpul mơnuih anŭn rai yơr tơngan mă Yêsu yơh.
51Hơmâo sa čô mơnuih amăng ƀing ding kơna Yêsu suă đao ñu kŏh hĭ pô hlŭn khua ngă yang prŏng hloh, laih anŭn kŏh tơĭ hĭ sa gah tơngia gơ̆.
52Yêsu laĭ kơ ñu tui anai, “Črŏ̱ glaĭ bĕ đao ih amăng hrum ñu, yuakơ abih bang hlơi pô djă̱ đao kiăng kơ pơdjai mơnuih, ñu anŭn arăng či pơdjai hĭ hăng đao yơh. 53Ih ƀu thâo ôh hă, Kâo dưi rơkâo kơ Ama Kâo ră anai mơtam kơ tơlơi djru, laih anŭn Ñu či pơkiaŏ rai rơbeh kơ pluh-dua grup ƀing ling jang hiam? 54Samơ̆ tơdah Kâo ngă tui anŭn, boh hiăp arăng hơmâo čih laih amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam kiăng kơ krep truh, sĭt ƀu či krep truh hĭ dơ̆ng tah.”
55Mông anŭn Yêsu pơhiăp kơ tơpul mơnuih anŭn tui anai, “Ƀing gih djă̱ đao hăng gai tơlŏ rai mă Kâo kar hăng rai mă mơnuih klĕ dŏp hă? Rĭm wơ̆t Kâo dŏ pơ anih wăl tơdron Sang Yang kiăng kơ pơtô laĭ pơ anŭn, samơ̆ ƀing gih ƀu mă Kâo ôh. 56Samơ̆ abih bang tơlơi anai hơmâo truh laih kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng boh hiăp ƀing pô pơala hơmâo čih laih amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam yơh.”
 Giŏng anŭn, abih bang ƀing ding kơna lui hĭ Yêsu hăng đuaĭ kơdŏp hĭ yơh.

Grup Ƀing Phat Kơđi Klă Kơđi Djai Kơ Yêsu

(Markôs 14:53-65; Luk 22:54, 55, 63-71; Yôhan 18:13, 14, 19-24)

57Tơpul mơnuih mă Yêsu anŭn ba Ñu nao pơ sang Kaiaphas, jing khua ngă yang prŏng hloh. Pơ sang anŭn hơmâo ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt Môseh wơ̆t hăng ƀing kŏng tha ană plei dŏ pơtŭm glaĭ dŏ tơguan. 58Pêtrôs đuaĭ tui Yêsu kơnơ̆ng mơ̆ng ataih hlŏng truh pơ wăl tơdron gah rơngiao kơ sang pô khua ngă yang prŏng hloh. Ñu mŭt nao amăng anih wăl tơdron anŭn dŏ be̱r hăng ƀing dŏ gak kiăng kơ lăng hơget tơlơi či truh.
59Hlak anŭn, ƀing khua ngă yang prŏng wơ̆t hăng abih bang ƀing pơkŏn amăng grup ƀing khua phat kơđi sanhedrin gir hơduah mơnuih ngă gơ̆ng jơlan ƀlŏr pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yêsu kiăng kơ hơmâo tơhơnal tơlơi arăng pơdjai hĭ Ñu. 60Samơ̆ ƀing gơñu hơduah ƀu ƀuh ôh wơ̆t tơdah hơmâo lu mơnuih tơgŭ rai ngă gơ̆ng jơlan ƀlŏr kơ Ñu. Hơnăl tuč, hơmâo dua čô mơnuih tơgŭ rai, 61laih anŭn pơhaih tui anai, “Čơkơi anai hơmâo laĭ laih tui anai, ‘Kâo dưi pơrai hĭ Sang Yang Ơi Adai laih anŭn pơdơ̆ng glaĭ sang anŭn amăng klâo hrơi.’ ”
62Giŏng anŭn, khua ngă yang prŏng hloh tơgŭ laih anŭn laĭ hăng Yêsu tui anai, “Ih ƀu či laĭ glaĭ ôh hă kơ tơlơi gơ̆ng jơlan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih anŭn?” 63Samơ̆ Yêsu kơnơ̆ng dŏ rơiăt đôč.
 Giŏng anŭn, khua ngă yang prŏng hloh laĭ kơ Yêsu dơ̆ng tui anai, “Hăng anăn Ơi Adai Pô hơdip hlŏng lar kâo brơi kơ Ih ƀuăn rơ̆ng: Ruai bĕ kơ ƀing gơmơi thâo, djơ̆ mơ̆ Ih jing Pô Messiah, jing Ană Ơi Adai?”
64Yêsu laĭ glaĭ, “Ơ, tui hăng ih hơmâo laĭ laih. Samơ̆ Kâo laĭ hăng ƀing gih, čơdơ̆ng mơ̆ng mông anai ƀing gih či ƀuh Ană Mơnuih dŏ be̱r ƀơi gah hơnuă kơ Ơi Adai Dưi Kơtang laih anŭn či trŭn rai ƀơi kơthul hiăng adai adih yơh.”
65Tui anŭn, khua ngă yang prŏng hloh hek hĭ ao ñu pô kiăng kơ pơrơđah tơlơi rơngot hơning hăng laĭ tui anai, “Ñu hơmâo pơhiăp ƀrưh mơhiăh biă mă! Ƀing ta ƀu kiăng kơ ƀing ngă gơ̆ng jơlan pơkŏn dơ̆ng tah! Ƀing gih pô yơh hơmâo hơmư̆ laih tơlơi Ñu pơhiăp ƀrưh mơhiăh anŭn! 66Hơget tơlơi ƀing gih pơmĭn či ngă lĕ?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Ñu lăp kơ djai yơh!”
67Giŏng anŭn, đơđa ƀing gơñu kơčŭh ia bah ƀơi ƀô̆ Yêsu hăng čo̱k Ñu, laih anŭn đơđa ƀing pơkŏn păh meng Ñu, 68laih anŭn laĭ, “Ơ Messiah ăh, laĭ pơthâo bĕ kơ ƀing gơmơi! Laĭ bĕ hlơi pô hơmâo taih laih ŏng.”

Pêtrôs Hơngah Hĭ Yêsu Klâo Wơ̆t

(Markôs 14:66-72; Luk 22:56-62; Yôhan 18:15-18, 25-27)

69Hlak anŭn, Pêtrôs ăt dŏ pơ gah rơngiao amăng wăl tơdron sang. Hơmâo sa čô ding kơna đah kơmơi amăng sang anŭn rai pơ ñu hăng laĭ tui anai, “Ih ăt jing pô dŏ hrŏm hăng Yêsu, mơnuih Galilê mơ̆n.”
70Samơ̆ Pêtrôs hơngah ƀơi anăp abih bang ƀing dŏ pơ anŭn tui anai, “Kâo ƀu thâo hluh ôh hơget tơlơi ih kiăng laĭ.”
71Giŏng anŭn, Pêtrôs tơbiă nao pơ bah amăng wăl tơdron sang. Hơmâo sa čô ding kơna đah kơmơi pơkŏn ƀuh ñu laih anŭn laĭ kơ ƀing mơnuih dŏ jĕ pơ anŭn tui anai, “Mơnuih anai ăt dŏ hrŏm hăng Yêsu pô Nazaret mơ̆n.”
72Pêtrôs hơngah dơ̆ng laih anŭn ƀuăn rơ̆ng ñu pô tui anai, “Kâo ƀu thâo ôh Pô anŭn.”
73Sui ƀiă kơ anŭn, ƀing mơnuih dŏ dơ̆ng jĕ pơ anŭn nao pơ Pêtrôs hăng laĭ tui anai, “Sĭt yơh, ih ăt jing sa čô amăng grup gơñu mơ̆n, yuakơ hiăp ih yơh pơhiăp pơrơđah kơ ih pô jing mơnuih Galilê.”
74Giŏng anŭn, Pêtrôs hơtŏm păh kơ ñu pô laih anŭn ƀuăn rơ̆ng tui anai, “Kâo ƀu thâo Pô anŭn ôh!”
 Ƀơi mông anŭn mơtam mơnŭ tơdjô̆.
75Tui anŭn, Pêtrôs hơdơr glaĭ boh hiăp Yêsu hơmâo laĭ lui hlâo laih tui anai, “Hlâo kơ mơnŭ tơdjô̆, klâo wơ̆t mơtam yơh ih či hơngah ƀu thâo krăn ôh Kâo.” Laih anŭn ñu tơbiă nao pơ gah rơngiao hia rơngot hơning biă mă.