26

Sự đau đớn, chết và sống lại của Đức Chúa Jêsus

(Từ đoạn 26:1 đến đoạn 28:20)

Sự lập mưu của các thầy tế lễ

(Mac 14:1,2; Lu 22:1,2; Gi 11:45-53)

1 Vả, Đức Chúa Jêsus đã phán những lời ấy xong rồi, thì phán cùng môn đồ rằng: 2 Các ngươi biết rằng còn hai ngày nữa thì đến lễ Vượt qua, và Con người sẽ bị nộp để chịu đóng đinh trên cây thập tự.
3 Bấy giờ các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân nhóm lại trong tòa thầy cả thượng phẩm tên là Cai-phe; 4 và bàn với nhau dùng mưu chước gì đặng bắt Đức Chúa Jêsus mà giết. 5 Song họ nói rằng: Không nên làm trong ngày lễ, e trong dân chúng sanh ra điều xào xạc chăng.

Chúa chịu xức dầu tại Bê-tha-ni

(Mac 14:3-9; Gi 12:1-8)

6 Khi Đức Chúa Jêsus ở làng Bê-tha-ni, tại nhà Si-môn là người phung, 7 có một người đàn bà cầm cái chai bằng ngọc trắng đựng dầu thơm quí giá lắm, đến gần mà đổ trên đầu Ngài đương khi ngồi ăn. 8 Môn đồ thấy vậy, giận mà trách rằng: Sao phí của như vậy? 9 Dầu nầy có thể bán được nhiều tiền và lấy mà bố thí cho kẻ nghèo nàn. 10 Đức Chúa Jêsus biết điều đó, bèn phán cùng môn đồ rằng: Sao các ngươi làm khó cho người đàn bà đó? Người đã làm việc tốt cho ta; 11 vì các ngươi thường có kẻ nghèo ở cùng mình, song sẽ không có ta ở cùng luôn luôn. 12 Người đổ dầu thơm trên mình ta là để sửa soạn chôn xác ta đó. 13 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin lành nầy được giảng ra, thì cũng thuật lại việc người ấy đã làm để nhớ đến người.

Đứa phản Chúa

(Mac 14:10,11; Lu 22:3-6)

14 Bấy giờ có một người trong mười hai sứ đồ, tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, đến tìm các thầy tế lễ cả, 15 mà nói rằng: Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục bạc. 16 Từ lúc đó, nó tìm dịp tiện để nộp Đức Chúa Jêsus.

Sự lập lễ Tiệc thánh

(Mac 14:12-21; Lu 22:7-13,21-23; Gi 13:21-30)

17 Trong ngày thứ nhứt ăn bánh không men, môn đồ đến gần Đức Chúa Jêsus mà thưa rằng: Thầy muốn chúng tôi dọn cho thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu? 18 Ngài đáp rằng: Hãy vào thành, đến nhà một người kia, mà nói rằng: Thầy nói: Giờ ta gần đến; ta và môn đồ ta sẽ giữ lễ Vượt qua trong nhà ngươi. 19 Môn đồ làm y như lời Đức Chúa Jêsus đã dạy mà dọn lễ Vượt qua.
20 Đến tối, Ngài ngồi ăn với mười hai sứ đồ. 21 Khi đương ăn, Ngài phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi rằng: Có một người trong các ngươi sẽ phản ta. 22 Các môn đồ lấy làm buồn bực lắm, và lần lượt hỏi Ngài rằng: Lạy Chúa, có phải tôi không? Ngài đáp rằng: 23 Kẻ nào để tay vào mâm với ta, ấy là kẻ sẽ phản ta. 24 Con người đi, y theo lời đã chép về Ngài; song khốn nạn thay cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn! 25 Giu-đa là kẻ phản Ngài cất tiếng hỏi rằng: Thưa thầy, có phải tôi chăng? Ngài phán rằng: Thật như ngươi đã nói.
26 Khi đương ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta. 27 Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi; 28 vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội. 29 Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta.

Lời bảo trước cho Phi-e-rơ

(Mac 14:27-31; Lu 22:31-34; Gi 13:36-38)

30 Khi đã hát thơ thánh rồi, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đi ra mà lên núi Ô-li-ve. 31 Ngài bèn phán rằng: Đêm nay các ngươi sẽ đều vấp phạm vì cớ ta, như có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì chiên trong bầy sẽ bị tan lạc. 32 Song sau khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi. 33 Phi-e-rơ cất tiếng thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy. 34 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần. 35 Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu. Hết thảy môn đồ đều nói y như vậy.

Vườn Ghết-sê-ma-nê. – Đức Chúa Jêsus bị bắt

(Mac 14:32-50; Lu 22:39-53 – Gi 18:3-12)

36 Rồi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đến một chỗ kêu là Ghết-sê-ma-nê. Ngài phán rằng: Hãy ngồi đây đợi ta đi cầu nguyện đằng kia. 37 Đoạn, Ngài bèn đem Phi-e-rơ và hai người con của Xê-bê-đê đi với mình, tức thì Ngài buồn bực và sầu não lắm. 38 Ngài bèn phán: Linh hồn ta buồn bực cho đến chết; các ngươi hãy ở đây và tỉnh thức với ta. 39 Rồi Ngài bước tới một ít, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện rằng: Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi Con! Song không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha. 40 Kế đó, Ngài trở lại với môn đồ, thấy đang ngủ, thì Ngài phán cùng Phi-e-rơ rằng: Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ được! 41 Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối. 42 Ngài lại đi lần thứ hai, mà cầu nguyện rằng: Cha ơi! Nếu chén nầy không thể lìa khỏi Con được mà Con phải uống, thì xin ý Cha được nên. 43 Ngài trở lại nữa, thì thấy môn đồ còn ngủ; vì mắt họ đã đừ quá rồi. 44 Đoạn, Ngài bỏ họ lại mà đi cầu nguyện lần thứ ba, và lặp xin như lời trước. 45 Rồi Ngài đi đến với môn đồ, mà phán rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! Nầy, giờ đã gần tới, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ có tội. 46 Hãy chờ dậy, đi hè, kìa kẻ phản ta đến kia.
47 Khi Ngài còn đương phán, xảy thấy Giu-đa là một người trong mười hai sứ đồ đến với một bọn đông người cầm gươm và gậy, mà các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân đã sai đến. 48 Đứa phản Ngài đã trao cho bọn đó dấu nầy: Người nào mà tôi sẽ hôn, ấy là người đó, hãy bắt lấy. 49 Tức thì Giu-đa đến gần Đức Chúa Jêsus, mà rằng: Chào thầy! Rồi hôn Ngài. 50 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán cùng nó rằng: Bạn ơi! Vậy thì vì việc nầy mà ngươi đến đây sao? Rồi chúng nó đến gần tra tay bắt Đức Chúa Jêsus.
51 Và nầy, có một người trong những người ở với Đức Chúa Jêsus giơ tay rút gươm ra, đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém đứt một cái tai của người. 52 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy nạp gươm vào vỏ; vì hễ ai cầm gươm thì sẽ bị chết vì gươm. 53 Ngươi tưởng ta không có thể xin Cha ta lập tức cho ta hơn mười hai đạo thiên sứ sao? 54 Nếu vậy, thế nào cho ứng nghiệm lời Kinh thánh đã chép rằng việc nầy tất phải xảy đến? 55 Lúc bấy giờ, Đức Chúa Jêsus phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến mà bắt ta, khác nào như ta là kẻ cướp. Ta thường ngày ngồi trong đền thờ và giảng dạy tại đó, mà các ngươi không bắt ta. 56 Nhưng mọi điều ấy phải xảy đến, hầu cho những lời các đấng tiên tri đã chép được ứng nghiệm. Khi ấy, hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà trốn đi.

Đức Chúa Jêsus ở trước mặt Cai-phe. – Phi-e-rơ chối Chúa

(Mac 14:53-72; Lu 22:54-71; Gi 18:15-27)

57 Những kẻ đã bắt Đức Chúa Jêsus đem Ngài đến nhà thầy cả thượng phẩm Cai-phe, tại đó các thầy thông giáo và các trưởng lão đã nhóm lại. 58 Phi-e-rơ theo Ngài xa xa cho đến sân của thầy cả thượng phẩm, vào ngồi với các kẻ canh giữ đặng coi việc ấy ra làm sao.
59 Bấy giờ các thầy tế lễ cả và cả tòa công luận kiếm chứng dối về Ngài, cho được giết Ngài. 60 Dầu có nhiều người làm chứng dối có mặt tại đó, song tìm không được chứng nào cả. Sau hết, có hai người đến, 61 nói như vầy: Người nầy đã nói: Ta có thể phá đền thờ của Đức Chúa Trời, rồi dựng lại trong ba ngày. 62 Thầy cả thượng phẩm bèn đứng dậy mà nói với Ngài rằng: Những người nầy làm chứng mà kiện ngươi, ngươi không thưa lại gì sao? 63 Nhưng Đức Chúa Jêsus cứ làm thinh. Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng? 64 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống. 65 Thầy cả thượng phẩm bèn xé áo mình mà nói rằng: Nó đã nói phạm thượng; chúng ta còn cần gì người làm chứng nữa sao? Các ngươi vừa nghe lời phạm thượng đó, thì nghĩ làm sao? 66 Chúng trả lời rằng: Nó đáng chết! 67 Họ bèn nhổ trên mặt Ngài, đấm Ngài, lại có kẻ vả Ngài, 68 mà nói rằng: Hỡi Đấng Christ, hãy nói tiên tri đi; cho chúng ta biết ai đánh ngươi.
69 Bấy giờ Phi-e-rơ vẫn ngồi ngoài sân. Có một người đầy tớ gái đến gần, mà nói cùng người rằng: Ngươi cũng là kẻ ở với Jêsus, người Ga-li-lê. 70 Song Phi-e-rơ chối trước mặt chúng mà rằng: Ta không hiểu ngươi nói chi. 71 Khi đi ra ngoài cửa, lại có một đầy tớ gái khác thấy người, bèn nói cùng kẻ ở đó rằng: Người nầy cũng ở với Jêsus, người Na-xa-rét. 72 Song Phi-e-rơ lại chối và thề rằng: Ta chẳng hề biết người ấy. 73 Một chặp nữa, những kẻ ở gần đó đến gần nói với Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng thuộc về đảng ấy, vì tiếng nói của ngươi khai ngươi ra. 74 Người bèn rủa mà thề rằng: Ta không biết người đó đâu! Tức thì gà gáy. 75 Phi-e-rơ nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán rằng: Trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần. Đoạn, người đi ra và khóc lóc cách đắng cay.

26

Klei Trông Čhai Bi Mdjiê Yêsu

(Mark 14:1-2; Luk 22:1-2; Yôh 11:45-53)

1Tơdah Yêsu ruê̆ leh blŭ jih klei anăn, Ñu lač kơ phung ƀĭng kna Ñu, 2 “Diih thâo adôk dua hruê srăng truh Knăm Klei Găn, leh anăn arăng srăng jao Anak Mnuih brei arăng pơ̆ng Ñu ti kyâo bi kal.”
3Hlăk anăn phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn phung khua mduôn hlăm phung ƀuôn sang bi kƀĭn hlăm sang khua ngă yang prŏng Y-Kaip, 4diñu bi trông čhai mă čăp Yêsu hŏng klei hgăm čiăng bi mdjiê Gơ̆. 5Ƀiădah diñu lač, “Amâo dưi ngă klei anăn ôh êjai klei huă mnăm, huĭdah mâo klei bi rŭng ti krah phung ƀuôn sang.”

Klei Hlĭng Êa Ƀâo Mngưi Ti Boh Kŏ Yêsu

(Mark 14:3-9; Yôh 12:1-8)

6Hlăk Yêsu dôk ti ƀuôn Ƀêthani hlăm sang Y-Simôn pô djŏ phŭng, 7 êjai Ñu dôk huă ƀơ̆ng mâo sa čô mniê djă sa giêt êa ƀâo mngưi yuôm snăk nao kơ Ñu leh anăn hlĭng êa ƀâo mngưi anăn ti boh kŏ Ñu. 8Tơdah phung ƀĭng kna ƀuh klei anăn, diñu ăl leh anăn lač, “Si ngă bi luč hơăi mang msĕ snăn? 9Kyuadah êa ƀâo mngưi anei arăng dưi čhĭ yuôm snăk, leh anăn bi mbha prăk anăn kơ phung ƀun ƀin.” 10Yêsu thâo klei anăn, snăn Yêsu lač kơ diñu, “Si ngă diih bi dleh kơ mniê anei? Gơ̆ ngă leh sa klei jăk snăk kơ kâo. 11 Kyuadah diih mâo phung ƀun ƀin mbĭt hŏng diih nanao, ƀiădah kâo amâo srăng dôk nanao mbĭt hŏng diih ôh. 12Klei gơ̆ hlĭng êa ƀâo mngưi anei ti asei mlei kâo jing klei gơ̆ mkra kơ klei dơr kâo. 13Sĭt nik kâo lač kơ diih, tar ƀar lăn ala ti anôk arăng srăng mtô klei mrâo mrang jăk anei, arăng srăng yăl dliê bi hdơr klei mniê anei ngă leh.”

Klei Y-Yuđas Trông Čhai Lhiăr kơ Yêsu

(Mark 14:10-11; Luk 22:3-6)

14Hlăk anăn sa čô hlăm phung pluh dua čô, anăn ñu Y-Yuđas Iskariôt, nao kơ phung knơ̆ng khua ngă yang 15 leh anăn lač, “Ya mnơ̆ng diih srăng brei kơ kâo tơdah kâo jao Yêsu kơ diih?” Phung anăn brei kơ ñu tlâo pluh asăr prăk. 16Dơ̆ng mơ̆ng mông anăn ñu duah hruê găl dưi jao Yêsu.

Yêsu Ƀơ̆ng Knăm Klei Găn Mbĭt hŏng Phung Ƀĭng Kna Ñu

(Mark 14:12-21; Luk 22:7-13,21-23; Yôh 13:21-30)

17Hruê tal sa hlăm klei ƀơ̆ng kpŭng amâo mâo kpei phung ƀĭng kna nao kơ Yêsu leh anăn lač, “Ti anôk ih brei hmei mkra kơ ih ƀơ̆ng Knăm Klei Găn?” 18Ñu lač, “Nao kơ sa čô êkei hlăm ƀuôn prŏng leh anăn lač kơ gơ̆, ‘Nai lač, Mông kâo giăm truh leh. Kâo srăng hdơr mpŭ Knăm Klei Găn ti sang ih mbĭt hŏng phung ƀĭng kna kâo.’ ” 19Phung ƀĭng kna ngă tui si Yêsu mtă kơ diñu, leh anăn diñu mkra Knăm Klei Găn.
20Tơdah adiê tlam mmăt leh, Ñu dôk huă ƀơ̆ng mbĭt hŏng phung pluh dua čô ƀĭng kna. 21Êjai diñu dôk ƀơ̆ng huă Ñu lač, “Sĭt nik kâo lač kơ diih, sa čô hlăm phung diih srăng lhiăr kơ kâo.” 22Diñu ênguôt snăk, leh anăn sa čô sa čô dơ̆ng êmuh kơ Yêsu, “Amâo djŏ kâo ôh yơ̆, Ơ Khua Yang?” 23 Yêsu lŏ wĭt lač, “Pô đrŭt kpŭng ñu hlăm jam mbĭt hŏng kâo srăng lhiăr kơ kâo. 24Anak Mnuih srăng djiê tui si Klei Aê Diê Blŭ čih leh djŏ kơ Ñu, ƀiădah knap mñai yơh kơ pô lhiăr kơ Anak Mnuih! Jăk hĭn arăng amâo tuôm kkiêng kơ gơ̆ ôh.” 25Y-Yuđas, pô lhiăr kơ Ñu, lač, “Djŏ mơ̆ kâo, Ơ Nai?” Yêsu lač kơ gơ̆, “Ih pô lač leh klei anăn.”

Klei Ƀơ̆ng Mnăm Sĭt Suôr

(Mark 14:22-26; Luk 22:14-20; I Kôr 11:23-25)

26Êjai diñu dôk huă ƀơ̆ng, Yêsu mă kpŭng, wah lač klei bi mni, kjoh kpŭng leh anăn bi mbha kơ phung ƀĭng kna, lač, “Mă ƀơ̆ng bĕ; anei jing asei mlei kâo.” 27Leh anăn Ñu mă atŏ, leh wah lač klei bi mni, Ñu brei atŏ anăn kơ digơ̆ leh anăn lač, “Brei jih jang diih mnăm bĕ; 28 kyuadah anei jing êrah kâo, êrah kơ klei bi mguôp tuh kyua lu mnuih čiăng pap brei klei soh diñu. 29Kâo hưn kơ diih, kâo amâo srăng lŏ mnăm ôh êa boh kriăk ƀâo anei tơl hruê kâo srăng lŏ mnăm êa boh kriăk ƀâo mrâo mbĭt hŏng diih hlăm ƀuôn ala mtao Ama kâo.” 30Leh diñu mmuñ sa klei, diñu kbiă nao kơ Čư̆ Ôliwơ.

Yêsu Hưn Êlâo kơ Y-Pêtrôs Srăng Hngah kơ Ñu

(Mark 14:27-31; Luk 22:31-34; Yôh 13:36-38)

31 Leh anăn Yêsu lač kơ diñu, “Mlam anei jih jang diih srăng êran đuĕ lui kâo. Kyuadah Klei Aê Diê Blŭ čih leh snei,
  ‘Kâo srăng čăm mgăt biăp,
   leh anăn phung biăp srăng klah đuĕ mdê mdê.’
32 Ƀiădah leh kâo kbiă lŏ hdĭp, kâo srăng nao êlâo kơ diih kơ čar Galilê.” 33Y-Pêtrôs hưn kơ Ñu, “Wăt tơdah jih jang srăng êran đuĕ lui Ih, kâo amâo srăng lui Ih ôh.” 34Yêsu lač kơ gơ̆, “Sĭt nik kâo lač kơ ih, mlam anei yơh, êlâo kơ mnŭ knô kdjô̆ ih srăng hngah kơ kâo tlâo bliư̆.” 35Y-Pêtrôs lač kơ Ñu, “Wăt tơdah djiê mbĭt hŏng Ih dưn, kâo amâo srăng hngah kơ Ih ôh.” Leh anăn jih jang phung ƀĭng kna lač klei msĕ.

Yêsu Wah Lač Hlăm War Mnga Gêtsêmanê

(Mark 14:32-42; Luk 22:39-46)

36Êdei tinăn Yêsu nao mbĭt hŏng phung ƀĭng kna kơ sa bĭt anôk arăng pia Gêtsêmanê. Ñu lač kơ digơ̆, “Dôk gŭ bĕ tinei êjai kâo nao wah lač tidih.” 37Ñu jak ba mbĭt hŏng Ñu Y-Pêtrôs leh anăn dua čô anak êkei Y-Sêbêdê. Ñu dơ̆ng ênguôt leh anăn rŭng răng. 38Ñu lač kơ digơ̆, “Ai tiê kâo ênguôt snăk păt čiăng djiê; dôk tinei leh anăn kăp răng mbĭt hŏng kâo.” 39Yêsu nao kbưi ƀiă, buôn kŭp ƀô̆ ti lăn, leh anăn wah lač, “Ơ Ama kâo, tơdah dưi, mă mđuĕ hĕ atŏ anei mơ̆ng kâo; amâo djŏ tui si kâo čiăng ôh, ƀiădah tui si Ih čiăng.” 40Êdei tinăn Ñu lŏ wĭt kơ phung ƀĭng kna leh anăn ƀuh digơ̆ dôk pĭt. Ñu lač kơ Y-Pêtrôs, “Diih amâo dưi hĕ dôk kăp răng mbĭt hŏng kâo sa mông? 41Kăp răng leh anăn wah lač bĕ, čiăng kơ diih amâo lĕ hlăm klei mplư ôh. Mngăt čiăng snăk, ƀiădah kđeh jing awăt.” 42Ñu lŏ nao tal dua leh anăn wah lač, “Ơ Ama kâo, tơdah Ih amâo dưi mă atŏ anei ôh mơ̆ng kâo tơl kâo mnăm leh, brei truh tui si Ih čiăng.” 43Ñu lŏ wĭt leh anăn ƀuh phung ƀĭng kna ăt dôk pĭt, kyuadah ală digơ̆ amâo dưi mblang ôh. 44Snăn Ñu lŏ đuĕ mơ̆ng digơ̆ leh anăn nao wah lač tal tlâo, blŭ msĕ si êlâo. 45Leh klei anăn Ñu lŏ wĭt kơ phung ƀĭng kna leh anăn lač kơ digơ̆, “Diih ăt dôk pĭt leh anăn dôk mdei hĕ? Nĕ anei, mông truh leh, arăng srăng jao Anak Mnuih hlăm kngan phung soh. 46Kgŭ nao bĕ drei! nĕ anei, pô lhiăr kơ kâo truh leh.”

Klei Arăng Mă Čăp Yêsu

(Mark 14:43-50; Luk 22:47-53; Yôh 18:3-12)

47Êjai Ñu ăt dôk blŭ, Y-Yuđas, sa čô hlăm phung pluh dua čô, hriê mbĭt hŏng phung lu djă đao gưm leh anăn giê mơ̆ng phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn phung khua mduôn hlăm phung ƀuôn sang. 48Pô lhiăr brei leh klei bi knăl kơ phung anăn, lač, “Pô kâo srăng čŭm, ñu yơh anăn; mă čăp ñu.” 49Mtam ñu nao kơ Yêsu leh anăn lač, “Kkuh kơ ih, Ơ Nai!” Leh anăn čŭm Yêsu. 50Yêsu lač kơ ñu, “Ơ jiăng, ngă bĕ ya klei ih čiăng hriê tinei!” Snăn diñu nao mă čăp Yêsu. 51Leh anăn nĕ anei, sa čô hlăm phung dôk mbĭt hŏng Yêsu suê̆ đao gưm ñu, koh dĭng buăl khua ngă yang prŏng djŏ ti knga gơ̆ tơl tloh. 52Yêsu lač kơ ñu, “Lŏ hrô đao gưm ih hlăm hrŭm; kyuadah hlei pô yua đao gưm srăng rai tuč hŏng đao gưm mơh. 53Ih mĭn kâo amâo dưi hĕ akâo kơ Ama, leh anăn Ñu srăng tiŏ hriê mtam kơ kâo êbeh kơ pluh dua phung dĭng buăl jăk? 54Ƀiădah tơdah snăn, si dưi bi sĭt Klei Aê Diê Blŭ čih leh kơ klei anei?” 55 Hlăk anăn Yêsu lač kơ phung lu, “Diih hriê hŏng đao gưm leh anăn giê čiăng mă kâo msĕ si mă sa čô knĕ. Grăp hruê kâo dôk mtô hlăm Sang Kkuh Mpŭ, ƀiădah diih amâo mă čăp kâo ôh. 56Ƀiădah jih jang klei anei truh leh čiăng dưi bi sĭt klei phung khua pô hưn êlâo čih leh.” Hlăk anăn jih jang phung ƀĭng kna lui Ñu leh anăn êran đuĕ.

Yêsu Ti Anăp Phung Khua Phat Kđi

(Mark 14:53-65; Luk 22:54-55,63-71; Yôh 18:13-14,19-24)

57Phung mă čăp leh Yêsu atăt ba Gơ̆ kơ sang khua ngă yang prŏng Y-Kaip. Tinăn phung khua čih hră leh anăn phung khua mduôn bi kƀĭn leh. 58Y-Pêtrôs tui hlue Yêsu kbưi kbưi, truh ti wăl sang khua ngă yang prŏng. Ñu mŭt dôk gŭ mbĭt hŏng phung kahan kiă čiăng dlăng ya klei srăng truh. 59Phung knơ̆ng khua ngă yang leh anăn jih jang phung khua phat kđi duah klei kčŭt mčeh kơ Yêsu čiăng dưi bi mdjiê Gơ̆. 60Ƀiădah diñu amâo ƀuh ôh, wăt tơdah mâo lu phung hưn soh hriê. Ti knhal tuč dua čô hriê lač, 61 “Êkei anei lač, ‘Kâo dưi bi rai Sang Kkuh Mpŭ Aê Diê leh anăn lŏ mdơ̆ng gơ̆ hlăm tlâo hruê.’ ” 62Khua ngă yang prŏng kgŭ dơ̆ng leh anăn lač, “Ih amâo mâo klei lŏ wĭt lač hĕ kơ klei phung anăn kčŭt kơ ih?” 63Ƀiădah Yêsu dôk ñăt. Khua ngă yang prŏng lač kơ Ñu, “Kâo mtă kơ ih hŏng anăn Aê Diê hdĭp, hưn bĕ kơ hmei djŏ mơ̆ ih jing Yang Krist, Anak Aê Diê?” 64Yêsu lač kơ ñu, “Ih pô lač leh klei anăn. Kdlưn hĭn kơ anăn kâo hưn kơ diih, sa hruê êdei diih srăng ƀuh Anak Mnuih dôk gŭ tĭng hnuă kơ Pô Myang leh anăn lŏ hriê ti knam hlăm adiê.” 65Hlăk anăn khua ngă yang prŏng hiêk ao jhung ñu leh anăn lač, “Ñu blŭ mgao hŏng Aê Diê leh. Ya drei lŏ čiăng kơ pô kčŭt ară anei? Diih hmư̆ leh klei ñu blŭ mgao. 66 Ya diih mĭn?” Phung anăn lŏ wĭt lač, “Ñu năng kơ klei djiê.” 67 Diñu kčuh êa bah ti ƀô̆ Yêsu leh anăn tŭk gơ̆; đa đa pah miêng gơ̆, 68leh anăn lač, “Ơ Yang Krist, hưn êlâo bĕ kơ hmei, hlei pô tŭk ih?”

Y-Pêtrôs Hngah kơ Yêsu

(Mark 14:66-72; Luk 22:56-62; Yôh 18:15-18,25-27)

69Hlăk anăn Y-Pêtrôs dôk gŭ ti tač hlăm wăl sang. Sa čô dĭng buăl mniê nao kơ ñu leh anăn lač, “Wăt ih mơh dôk leh mbĭt hŏng Yêsu mnuih čar Galilê.” 70Ƀiădah Y-Pêtrôs hngah klei anăn ti anăp jih jang diñu, lač, “Kâo amâo thâo ôh ya klei ih lač anăn.” 71Êjai ñu đuĕ nao kơ ƀăng jang, sa čô dĭng buăl mniê mkăn ƀuh ñu, leh anăn lač kơ phung dôk giăm tinăn, “Êkei anei dôk leh mbĭt hŏng Yêsu ƀuôn Nasaret.” 72Ƀiădah ñu lŏ hngah leh anăn kat asei, lač, “Kâo amâo thâo kral ôh êkei anăn.” 73Ƀiă riă phung dôk giăm tinăn hriê lač kơ Y-Pêtrôs, “Sĭt nik ih jing sa čô hlăm phung anăn mơh, kyuadah asăp ih blŭ hưn hlei ih jing.” 74Ñu dơ̆ng tăm pah leh anăn kat asei, “Kâo amâo thâo kral êkei anăn ôh.” Hlăk anăn mtam, mnŭ knô kdjô̆. 75Y-Pêtrôs hdơr klei Yêsu lač leh, “Êlâo kơ mnŭ knô kdjô̆, ih srăng hngah kơ kâo tlâo bliư̆.” Leh anăn ñu kbiă hia ênguôt snăk.