2

Dống Sang Tamái Nêuq O Lứq

1Tâng tangái bar chít la muoi, casâi tapul, tâng cumo ki tê, Yiang Sursĩ atỡng ễn Hacai, la cũai tang bỗq án. 2Yiang Sursĩ ớn Hacai atỡng Saru-babel, án ca sốt cruang Yuda, cớp Yô-sũa, án ca sốt nheq tễ rit sang, dếh máh cũai proai ca khoiq píh chu loah tễ cruang Ba-bulôn neq: 3“Tâng tỗp anhia, bữn tỡ cũai noâng sanhữ Dống Sang Toâr tễ mbŏ́q nêuq o máh léq? Sanua nŏ́q anhia hữm? Anhia hữm Dống Sang nâi tỡ bữn o ariang tễ mbŏ́q tỡ? 4Ma sanua, anhia chỗi pê pahỡm. Saru-babel ơi! Cóq mới chỗi clac! Yô-sũa ơi! Cóq mới chỗi ngcŏh! Máh cũai proai ơi! Yỗn anhia parchéng parchỡiq táq ranáq! Yuaq cứq toâp ỡt cớp anhia. 5Bo anhia loŏh tễ cruang Ê-yip-tô tễ mbŏ́q, cứq khoiq parkhán chóq anhia la cứq ễ ỡt níc cớp anhia. Cớp sanua cứq noâng ỡt cớp anhia; ngkíq anhia chỗi ngcŏh ntrớu.
6“Tỡ bữn dũn noâng, cứq ễ acứr paloŏng cớp cốc cutễq nâi, dỡq mưt cớp cutễq. 7Cứq ễ alíh asễng nheq dũ cruang cũai, cớp dững pỡ nâi máh mun alới. Chơ Dống Sang Toâr nâi cỡt poân moang chớc ang‑ữr tễ cứq. 8Dũ máh práq cớp yễng tâng cốc cutễq nâi la khong cứq nheq. 9Dống Sang Toâr tamái nâi lứq cỡt ang‑ữr hỡn tễ dống sang tiaq arái; tâng ntốq nâi cứq ễ yỗn cũai proai cứq cỡt sốc bữn cớp ỡt ien khễ. Cứq Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq pai máh ŏ́c nâi.”

Cũai Tang Bỗq Yiang Sursĩ Sarhống Cớp Tỗp Tễng Rit Sang

10Tâng tangái bar chít la pỗn, casâi takêh, cumo bar Dari-ut cỡt sốt, Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq atỡng ễn chóq Hacai, la cũai tang bỗq án. 11Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq pai neq: “Cóq mới blớh máh cũai tễng rit sang tễ phễp rit Yiang Sursĩ neq: 12Khân bữn manoaq samiang cutúng sâiq noau dŏq miar khong Yiang Sursĩ tâng au tuar án, cớp nsái au tuar ki lơ tớt tâng bễng mi, tỡ la raveh, tỡ la blŏ́ng nho, tỡ la dỡq nsễng o‑li‑vê, tỡ la crơng sana ntrớu, chơ crơng sana ki cỡt crơng miar khong Yiang Sursĩ tê, ma tỡ bữn?”
 Tữ máh cũai tễng rit sang sâng tễ santoiq blớh nâi, alới ta‑ỡi neq: “Tỡ bữn.”
13Chơ Hacai blớh neq: “Khân bữn manoaq cũai cỡt tỡ bữn bráh puai rit cỗ án satoaq sac cũai cuchĩt, ma án pỡq satoaq crơng sana ki, crơng sana ki cỡt tỡ bráh puai rit tỡ?”
 Tỗp tễng rit sang ta‑ỡi neq: “Pĩeiq. Crơng ki cỡt tỡ bữn bráh.”
14Chơ Hacai pai: “Yiang Sursĩ pai neq: ‘Choâng moat cứq máh cũai proai nâi la machớng crơng tỡ bữn bráh ki tê. Dũ ranáq alới táq cớp máh crơng alới chiau sang la tỡ bữn bráh machớng ki tê.’”

Yiang Sursĩ Ữq Satốh Ŏ́c Bốn

15Yiang Sursĩ pai neq: “Cóq anhia chanchớm samoât tễ máh ranáq ễ toâq pỡ anhia. Bo anhia noâng tỡ yũah tayoâq atĩ táq loah Dống Sang Toâr, 16anhia hữm ma tỡ bữn? Anhia pỡq ĩt saro, cớp anhia ễ ĩt bar chít achoiq, ma tâng sũ saro ki bữn ống muoi chít achoiq sâng. Anhia pỡq ĩt blŏ́ng nho tễ khang, anhia chanchớm pai bữn sỡng chít bễ, ma tâng khang ki bữn ống bar chít bễ sâng. 17Cứq khoiq yỗn cuyal rapuq cớp prễl toâq talốh nheq máh crơng sarnóh anhia chóh; ma anhia noâng tỡ bữn pĩen loah mứt pahỡm tamái. 18Tangái nâi la tangái bar chít la pỗn, casâi takêh, la tangái táng tanang Dống Sang Toâr yỗn moâm. Tutuaiq nhêng samoât tễ nâi chumát bữn ranáq ntrớu ễ cỡt. 19Tam tỡ bữn bữn saro tâng sũ, cớp tam máh voar nho, nỡm tarúng, nỡm ỗiq-tâi, cớp nỡm o‑li‑vê tỡ bữn bữn palâi, mŏ tễ nâi chumát cứq lứq satốh ŏ́c bốn yỗn anhia.”

Yiang Sursĩ Parkhán Cớp Saru-babel

20Tâng tangái ki toâp, la tangái bar chít la pỗn, casâi takêh, Yiang Sursĩ atỡng Hacai trỗ bar ễn, 21dŏq Hacai atỡng loah Saru-babel, án ca sốt cruang Yuda, neq: “Cứq ễ acứr paloŏng cớp cutễq nâi, 22chơ cứq pupứt máh cruang canŏ́h, dếh alíh máh chớc alới. Cứq ễ palŏ́h máh sễ aséh rachíl cớp máh cũai dững sễ ki; chơ máh cũai ki, manoaq ễ tráh manoaq toâq pla dau. 23Saru-babel con samiang Sial-tiel, la cũai táq ranáq cứq ơi! Tâng tangái ki cứq rưoh mới, cớp chóh mới cỡt cũai sốt máh proai cứq. Cứq Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq toâp pai máh ŏ́c nâi.”

2

Vẻ đẹp của đền thờ

1Vào ngày hai mươi mốt tháng bảy, CHÚA phán như sau qua A-gai, nhà tiên tri rằng, 2“Hãy nói cùng Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên, tổng trấn Giu-đa, và cùng Giô-suê, con Giê-hô-xa-đác, thầy tế lễ tối cao, cùng tất cả dân sống sót như sau, 3‘Có ai trong các ngươi còn nhớ vẻ oai nghi của đền thờ trước khi bị tiêu hủy không? Bây giờ thì đền thờ trông như thế nào? Có phải nó trông không ra gì đối so với đền thờ trước không?’ 4Nhưng CHÚA phán, ‘Hỡi Xê-ru-ba-bên, hãy can đảm. Ngoài ra, hỡi Giô-suê, con Giê-hô-xa-đác, là thầy tế lễ tối cao và toàn dân trong xứ, hãy mạnh dạn lên,’ CHÚA phán. ‘Hãy thi hành công tác, vì ta ở cùng các ngươi,’ CHÚA Toàn Năng phán vậy. 5‘Khi các ngươi ra khỏi Ai-cập ta đã hứa cùng các ngươi, và bây giờ Thần linh ta cũng ở giữa các ngươi, cho nên đừng sợ.’
6CHÚA Toàn Năng phán: ‘Ít lâu nữa, ta sẽ lại làm rung chuyển trời và đất, biển cùng đất khô. 7Ta sẽ làm rúng động các dân, và họ sẽ mang của cải lại. Rồi ta sẽ làm cho đền thờ nầy đầy vinh hiển,’ CHÚA Toàn Năng phán vậy. 8CHÚA Toàn Năng phán, ‘Bạc là của ta, vàng cũng là của ta,’ 9‘Vinh quang của đền thờ mới sẽ rực rỡ hơn vinh quang của đền thờ cũ,’ CHÚA Toàn Năng phán. ‘Và ta sẽ ban hòa bình nơi nầy,’ CHÚA Toàn Năng phán.”

Ngày phước hạnh bắt đầu

10Vào ngày hai mươi bốn tháng chín năm thứ hai triều đại Đa-ri-út, thì CHÚA phán cùng A-gai, nhà tiên tri rằng, 11“CHÚA Toàn Năng phán như sau: ‘Hãy hỏi các thầy tế lễ điều giáo huấn sau. 12Giả sử có người mang trong chéo áo một số thịt đã được biệt ra thánh cho CHÚA. Nếu chéo áo đó đụng đến bánh mì, thức ăn đã nấu, rượu, dầu ô liu, hay bất cứ thức ăn nào khác thì các món đó có hóa thánh hay không?’”
 Các thầy tế lễ trả lời, “Không.”
13A-gai tiếp, “Ai đụng đến xác chết sẽ bị nhơ nhớp. Nếu người đó đụng đến bất cứ thức ăn nào vừa nói thì thức ăn đó có bị nhơ nhớp không?”
 Các thầy tế lễ đáp, “Có, món đó sẽ bị nhơ nhớp.”
14Rồi A-gai nói, “CHÚA phán, ‘Dân xứ nầy cũng như vậy. Họ bị nhơ nhớp, và những gì do tay họ làm đều nhơ nhớp đối với ta. Những gì họ dâng ở bàn thờ cũng đều nhơ nhớp.
15Từ nay về sau hãy suy nghĩ về điều ấy! Hãy suy nghĩ trước khi các ngươi bắt đầu đặt viên đá nầy lên viên đá khác để xây đền thờ CHÚA. 16Có người đi đến một đống lúa mong tìm được hai mươi thùng đầy nhưng chỉ được có mười thùng hoặc ai đến vạc rượu để lấy ra năm mươi chai rượu đầy mà chỉ còn có hai mươi chai. 17Ta đã dùng bệnh tật, mốc meo, và mưa đá làm hư hỏng công việc tay các ngươi làm nhưng các ngươi vẫn không trở lại cùng ta,’ CHÚA phán. 18‘Vào ngày hai mươi bốn tháng chín, ngày mà dân chúng hoàn tất việc đặt nền cho đền thờ CHÚA. Từ nay về sau hãy suy nghĩ các điều nầy: 19Trong kho các ngươi có còn hột giống cho mùa màng không? Dây nho, cây vả, cây lựu, và cây ô liu chưa ra trái. Nhưng từ nay về sau ta sẽ ban phước cho các ngươi!’”

Lời Chúa hứa cùng Xê-ru-ba-bên

20Rồi CHÚA phán cùng A-gai một lần nữa vào ngày hai mươi bốn tháng ấy. Ngài bảo, 21“Hãy nói cùng Xê-ru-ba-bên, tổng trấn Giu-đa rằng, ‘Ta sẽ làm rúng động trời và đất. 22Ta sẽ tiêu diệt các quốc gia ngoại quốc và tước đoạt quyền lực của các dân. Ta sẽ tiêu diệt các quân xa và người điều khiển. Ngựa cùng người cỡi đều sẽ ngã nhào, vì người ta sẽ dùng gươm chém giết nhau.’ 23CHÚA Toàn Năng phán, ‘Trong ngày đó, ta sẽ nhận ngươi, Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên, tôi tớ ta,’ CHÚA phán, ‘Và ta sẽ khiến ngươi trở nên quan trọng như nhẫn đóng ấn của ta vì ta đã chọn ngươi!’” CHÚA Toàn Năng phán vậy.