1 Nầy là các dân tộc mà Đức Giê-hô-va để còn lại, đặng dùng chúng nó thử thách người Y-sơ-ra-ên nào chưa từng thấy những chiến trận Ca-na-an. --- 2 Ngài chỉ muốn thử thách các dòng dõi mới của dân Y-sơ-ra-ên, tập cho chúng nó việc chiến trận, nhứt là những kẻ chưa từng thấy chiến trận khi trước. --- 3 Các dân tộc nầy là dân Phi-li-tin cùng năm vua chúng nó, hết thảy dân Ca-na-an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít ở tại núi Li-ban, từ núi Ba-anh-Hẹt-môn cho đến cửa Ha-mát. 4 Đức Giê-hô-va dùng các dân tộc nầy để thử thách Y-sơ-ra-ên, đặng xem thử chúng nó có ý vâng theo các điều răn mà Ngài cậy Môi-se truyền cho tổ phụ chúng nó chăng. 5 Như vậy, dân Y-sơ-ra-ên ở chung cùng dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, 6 cưới con gái của chúng nó làm vợ, gả con gái mình cho con trai chúng nó, và hầu việc các thần của chúng nó.
Sử ký các quan xét
(Từ 3:7 đến đoạn 16)
Ốt-ni-ên, Ê-hút và Sam-ga, quan xét của Y-sơ-ra-ên
7 Dân Y-sơ-ra-ên còn làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cúng thờ các hình tượng Ba-anh và A-sê-ra. 8 Vì vậy, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi phừng cùng Y-sơ-ra-ên, Ngài phó chúng vào tay Cu-san-Ri-sa-tha-im, vua nước Mê-sô-bô-ta-mi. Dân Y-sơ-ra-ên bị tám năm phục dịch vua Cu-san-Ri-sa-tha-im. 9 Kế ấy, dân Y-sơ-ra-ên kêu la cùng Đức Giê-hô-va; Đức Giê-hô-va bèn dấy lên cho chúng nó một người giải cứu, là Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em thứ của Ca-lép, và người ấy giải cứu họ. 10 Thần của Đức Giê-hô-va cảm động người, người đoán xét Y-sơ-ra-ên, và đi ra chiến trận. Đức Giê-hô-va phó Cu-san-Ri-sa-tha-im, vua A-ram, vào tay người, khiến cho người thắng Cu-san-Ri-sa-tha-im. 11 Xứ được hòa bình trong bốn mươi năm; kế đó, Ốt-ni-ên, con trai Kê-na, qua đời. 12 Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va; nên Đức Giê-hô-va khiến Éc-lôn, vua Mô-áp, trở nên cường thạnh để hãm đánh Y-sơ-ra-ên. 13 Vậy, Éc-lôn nhóm hiệp chung quanh mình dân Am-môn và dân A-ma-léc, kéo đi đánh Y-sơ-ra-ên, và chiếm lấy thành Cây Chà là. 14 Dân Y-sơ-ra-ên bị phục dịch Éc-lôn, vua Mô-áp, trong mười tám năm. 15 Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên kêu la cùng Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va dấy lên cho chúng một đấng giải cứu, là Ê-hút, con trai Ghê-ra, thuộc về chi phái Bên-gia-min, là người có tật thuận tay tả. Dân Y-sơ-ra-ên sai người đem lễ cống cho Éc-lôn, vua Mô-áp. 16 Ê-hút tự làm lấy một cây gươm hai lưỡi, dài một thước, và đeo theo trong áo mình nơi háng hữu. 17 Vậy, người đem dâng lễ cống cho Éc-lôn, vua Mô-áp, là một người rất mập. 18 Khi dâng lễ cống rồi, bèn cho những kẻ đã đem lễ vật đến đi về. 19 Nhưng chánh người đến hầm lấy đá ở gần Ghinh-ganh, thì trở lại, nói rằng: Hỡi vua, tôi có một lời tâu kín cùng vua. Vua truyền: Hãy nín! Hết thảy những kẻ hầu cận vua bèn đi ra. 20 Bấy giờ, vua đương ngồi một mình nơi lầu mát; Ê-hút đến gần mà nói rằng: Tôi có một lời của Đức Chúa Trời tâu lại với vua. Éc-lôn vừa đứng dậy khỏi ngai; 21 Ê-hút bèn giơ tay tả ra rút gươm đeo ở phía hữu, mà đâm người nơi bụng. 22 Cán gươm cũng lút theo lưỡi, mỡ líp lại xung quanh lưỡi gươm; vì người không rút gươm ra khỏi bụng, nó thấu ra sau lưng. 23 Đoạn, Ê-hút lánh ra nơi hiên cửa, đóng các cửa lầu mát lại và gài chốt. 24 Khi Ê-hút đã đi ra khỏi, các đầy tớ đến xem, thấy các cửa lầu mát đều đóng gài chốt, thì nói với nhau rằng: Hoặc vua đi ngơi trong lầu mát chăng. 25 Chúng đợi rất lâu, đến đỗi hổ thẹn; song vì không thấy vua mở cửa phòng, bèn lấy chìa khóa và mở: Kìa thấy chúa mình đã chết, nằm sải trên đất. 26 Trong khi chúng trì hoãn, Ê-hút đã trốn qua khỏi các hầm đá, lánh đến Sê-ri-a. 27 Người vừa đến, bèn thổi kèn lên trong núi Ép-ra-im; dân Y-sơ-ra-ên đều cùng người xuống khỏi núi, và chính người đi ở đầu hết. 28 Ê-hút nói cùng chúng rằng: Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va đã phó vào tay các ngươi dân Mô-áp, là kẻ thù nghịch các ngươi. Chúng đều theo người xuống chiếm cứ các chỗ cạn sông Giô-đanh, là đường đi đến Mô-áp, cấm không cho ai đi qua. 29 Vậy, trong lúc đó dân Y-sơ-ra-ên đánh giết chừng mười ngàn người Mô-áp, thảy đều là tay mạnh mẽ, can đảm, không một ai thoát khỏi được. 30 Trong ngày đó, dân Mô-áp bị phục dưới tay Y-sơ-ra-ên; xứ được hòa bình trong tám mươi năm. 31 Sau Ê-hút, có Sam-ga, con trai của A-nát. Người dùng một cây đót bò mà đánh giết sáu trăm người Phi-li-tin, và cũng giải cứu Y-sơ-ra-ên.
3
Phung Găp Djuê Ăt Dôk Pioh Lông Dlăng Phung Israel
1Nĕ anei jing phung găp djuê Yêhôwa lui ăt dôk čiăng lông dlăng phung Israel, phung amâo tuôm thâo ôh klei bi blah hlăm čar Kanaan; 2klei anăn knŏng čiăng kơ phung ƀuôn sang Israel ênuk êdei dưi thâo klei bi blah, čiăng kơ ñu dưi bi hriăm klei bi blah kơ phung amâo tuôm thâo klei anăn êlâo. 3Anei phung găp djuê: êma čô khua phung Philistin, jih jang phung Kanaan, phung Sidôn, leh anăn phung Hiwit dôk hlăm čư̆ Liƀan dơ̆ng mơ̆ng čư̆ Baal-Hermôn truh kơ anôk mŭt ƀuôn Hamat. 4Arăng pioh diñu čiăng lông dlăng phung Israel, čiăng thâo thâodah phung Israel srăng gưt kơ klei Yêhôwa mtă kơ phung aê diñu đưm, hŏng Y-Môis. 5Snăn, phung ƀuôn sang Israel dôk ti krah phung Kanaan, phung Hitit, phung Amôrit, phung Pêrisit, phung Hiwit, leh anăn phung Jêbusit. 6Diñu mă anak mniê digơ̆ jing mô̆ diñu, leh anăn brei anak mniê diñu pô kơ phung anak êkei digơ̆; leh anăn diñu mă bruă kơ phung yang digơ̆.
Y-Ôtniêl Bi Mtlaih Phung Israel
7Phung ƀuôn sang Israel ngă klei jhat ti anăp ală Yêhôwa, wơr bĭt Yêhôwa, Aê Diê diñu, leh anăn mă bruă kơ phung yang Baal leh anăn phung yang Asêra. 8Kyuanăn Yêhôwa čuh ai ngêñ kơ phung Israel, leh anăn Ñu čhĭ digơ̆ hlăm kngan Y-Kusan-Risathaim mtao čar Mêsôpôtami. Leh anăn phung ƀuôn sang Israel mă bruă kơ Y-Kusan-Risathaim sa păn thŭn. 9Ƀiădah tơdah phung Israel ur kơ Yêhôwa, Yêhôwa ruah sa čô pô bi mtlaih kơ phung ƀuôn sang Israel, Y-Ôtniêl, anak êkei Y-Kênas, adei Y-Kalep. 10Mngăt Myang Yêhôwa trŭn kơ ñu, leh anăn ñu phat kđi phung Israel. Ñu kbiă nao bi blah, leh anăn Yêhôwa jao Y-Kusan-Risathaim mtao čar Mêsôpôtami hlăm kngan ñu; leh anăn ñu dưi hŏng Y-Kusan-Risathaim. 11Snăn, ala čar mâo klei mdei bi blah pă pluh thŭn. Leh anăn Y-Ôtniêl, anak êkei Y-Kênas djiê.
Y-Êhut Bi Mtlaih Phung Israel
12Phung ƀuôn sang Israel lŏ ngă klei jhat ti anăp ală Yêhôwa, leh anăn Yêhôwa bi ktang Y-Êglon mtao čar Môap bi kdơ̆ng hŏng phung Israel, kyuadah diñu ngă klei jhat ti anăp ală Yêhôwa. 13Ñu bi kƀĭn mbĭt hŏng ñu phung Amôn leh anăn phung Amalek, nao bi blah leh anăn dưi hŏng phung Israel; leh anăn diñu mă bha ƀuôn mâo ana boh đung. 14Phung ƀuôn sang Israel mă bruă kơ Y-Êglon, mtao čar Môap pluh sa păn thŭn. 15Ƀiădah tơdah phung ƀuôn sang Israel ur kơ Yêhôwa, Yêhôwa ruah brei kơ diñu sa čô pô bi mtlaih, jing Y-Êhut, anak êkei Y-Gêra, mơ̆ng găp djuê Benjamin, jing mnuih mđiâo. Phung ƀuôn sang Israel tuh jia brei Y-Êhut djă ba kơ Y-Êglon mtao čar Môap. 16Y-Êhut ngă kơ ñu pô sa ƀĕ đao gưm dua nah mta, boh dlông sa heh; leh anăn ñu liêô gơ̆ ti kơiêng hnuă ñu ti gŭ ao ñu. 17Ñu ba jia kơ Y-Êglon, mtao čar Môap. Y-Êglon jing sa čô êkei êmŏng snăk. 18Tơdah leh Y-Êhut tuh jia, ñu brei phung ƀuôn sang tuh jia anăn đuĕ wĭt. 19Ƀiădah ñu pô lŏ wĭt kơ tluôn ti rup boh tâo krah, giăm Gilgal, leh anăn lač, “Ơ mtao, kâo mâo sa klei hgăm čiăng hưn kơ ih.” Snăn mtao lač, “Dôk kriêp.” Leh anăn jih jang phung kăp đru mtao kbiă mơ̆ng anôk ñu dôk. 20Y-Êhut nao kơ ñu êjai ñu dôk gŭ hjăn ñu pô hlăm adŭ êđăp giăm găp. Leh anăn Y-Êhut lač, “Kâo mâo klei hưn mơ̆ng Aê Diê kơ ih.” Leh anăn mtao kgŭ mơ̆ng mdhô̆ ñu. 21Y-Êhut hŏng kngan điâo ñu suê̆ đao gưm mơ̆ng kơiêng hnuă ñu, leh anăn tlŏ ti tian Eglon. 22Grăn hlŏng kma mbĭt hŏng mta đao mơh, leh anăn êmă guôm mta đao, kyuadah ñu amâo suê̆ ôh đao anăn mơ̆ng tian gơ̆; leh anăn eh kbiă ti tač. 23Y-Êhut kbiă ti adring, kđăl ƀăng bhă adŭ anăn ti tluôn ñu, leh anăn khuă hĕ. 24Tơdah ñu đuĕ leh, phung dĭng buăl hriê; leh anăn tơdah diñu ƀuh ƀăng bhă adŭ anăn khuă leh, diñu mĭn, “Mtao nao tlô hlăm anôk tlô adŭ anăn.” 25Diñu dôk guôn sui tơl diñu amâo lŏ thâo săng ôh; ƀiădah tơdah ƀuh mtao amâo pŏk ƀăng bhă adŭ anăn, diñu mă kliăng leh anăn pŏk; leh anăn tinăn khua diñu êbuh djiê leh ti tria. 26Êjai diñu dôk guôn, Y-Êhut đuĕ găn êgao leh nah dih rup boh tâo krah, leh anăn đuĕ truh kơ ƀuôn Sêra. 27Tơdah ñu truh tinăn, ñu ayŭ ki hlăm čar kngư Êphraim; leh anăn phung ƀuôn sang Israel trŭn mbĭt hŏng ñu mơ̆ng čar kngư, leh anăn ñu jing khua atăt digơ̆. 28Ñu lač kơ digơ̆, “Tui hlue kâo bĕ, kyuadah Yêhôwa jao leh phung roh diih phung Môap hlăm kngan diih.” Snăn digơ̆ trŭn mbĭt hŏng ñu, leh anăn plah mă mơ̆ng phung Môap anôk arăng găn êa krông Yurdan, leh anăn amâo brei ôh sa čô găn tinăn. 29Diñu bi mdjiê hlăk anăn hlăm brô pluh êbâo čô phung Môap, jih jang phung ktang kjăp asei mlei, amâo mâo sa čô tlaih ôh. 30Snăn phung Môap mŭt phung Israel hruê anăn. Leh anăn čar mâo klei mdei bi blah êjai sa păn pluh thŭn.
Y-Samgar Bi Mtlaih Phung Israel
31Êdei kơ Y-Êhut mâo Y-Samgar anak êkei Y-Anat, pô bi mdjiê năm êtuh čô phung Philistin hŏng sa ƀĕ giê knur tlŏ êmô. Leh anăn ñu msĕ mơh bi mtlaih phung Israel.