12

Bứt bông lúa mì

(Mac 2:23-28; Lu 6:1-5)

1 Lúc đó, nhằm ngày Sa-bát, Đức Chúa Jêsus đi qua giữa đồng lúa mì; các môn đồ đói, bứt bông lúa mà ăn. 2 Người Pha-ri-si thấy vậy, bèn nói cùng Ngài rằng: Kìa, môn đồ thầy làm điều không nên làm trong ngày Sa-bát. 3 Song Ngài đáp rằng: Chuyện vua Đa-vít đã làm trong khi vua với kẻ đi theo bị đói, các ngươi há chưa đọc đến sao? 4 Tức là vua vào đền Đức Chúa Trời, ăn bánh bày ra, là bánh mà vua và kẻ đi theo không có phép ăn, chỉ để riêng cho các thầy tế lễ. 5 Hay là các ngươi không đọc trong sách luật, đến ngày Sa-bát, các thầy tế lễ trong đền thờ phạm luật ngày đó, mà không phải tội sao? 6 Vả lại, ta phán cùng các ngươi, tại chỗ nầy có một đấng tôn trọng hơn đền thờ. 7 Phải chi các ngươi hiểu nghĩa câu nầy: Ta muốn lòng nhân từ, không muốn của tế lễ, thì các ngươi không trách những người vô tội; 8 vì Con người là Chúa ngày Sa-bát.

Chúa chữa người teo tay

(Mac 3:1-6; Lu 6:6-11)

9 Đức Chúa Jêsus đi khỏi nơi đó, bèn vào nhà hội. 10 Ở đó, có một người teo một bàn tay. Có kẻ hỏi Ngài rằng: Trong ngày Sa-bát, có phép chữa kẻ bịnh hay không? Ấy là họ có ý kiếm dịp kiện Ngài. 11 Ngài bèn phán cùng họ rằng: Ai trong vòng các ngươi có một con chiên, nếu đương ngày Sa-bát, bị té xuống hầm, thì há không kéo nó lên sao? 12 Huống chi người ta trọng hơn con chiên là dường nào! Vậy, trong ngày Sa-bát có phép làm việc lành. 13 Đoạn, Ngài phán cùng người tay teo rằng: Hãy giơ tay ra. Người liền giơ tay, thì tay nầy cũng lành như tay kia 14 Những người Pha-ri-si đi ra ngoài rồi, bàn với nhau, lập mưu đặng giết Ngài.
15 Song Đức Chúa Jêsus biết điều ấy, thì bỏ đi khỏi chỗ đó; có nhiều người theo, và Ngài chữa lành cả. 16 Ngài cấm ngặt họ đừng cho ai biết Ngài; 17 để được ứng nghiệm lời đấng tiên tri Ê-sai đã nói rằng:
18 Nầy, tôi tớ ta đã chọn,
 Là người mà ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng.
 Ta sẽ cho Thánh Linh ta ngự trên người,
 Người sẽ rao giảng sự công bình cho dân ngoại.
19 Người sẽ chẳng cãi lẫy, chẳng kêu la,
 Và chẳng ai nghe được tiếng người ngoài đường cái.
20 Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã gãy, chẳng tắt ngọn đèn gần tàn,
 Cho đến chừng nào người khiến sự công bình được thắng.
21 Dân ngoại sẽ trông cậy danh người.

Chúa chữa người bị quỉ ám.– Tội phạm đến Đức Thánh Linh.– Cây và trái

(Mac 3:20-30; Lu 11:14-23; 12:10)

22 Bấy giờ có kẻ đem đến cho Đức Chúa Jêsus một người mắc quỉ ám, đui và câm; Ngài chữa cho, đến nỗi người câm nói và thấy được. 23 Chúng lấy làm lạ, mà nói rằng: Có phải người đó là con cháu vua Đa-vít chăng? 24 Song những người Pha-ri-si nghe vậy, thì nói rằng: Người nầy chỉ nhờ Bê-ên-xê-bun là chúa quỉ mà trừ quỉ đó thôi.
25 Đức Chúa Jêsus biết ý tưởng họ, thì phán rằng: Một nước mà chia xé nhau thì bị phá hoang; một thành hay là một nhà mà chia xé nhau thì không còn được. 26 Nếu quỉ Sa-tan trừ quỉ Sa-tan, ấy là tự nó chia xé nhau; thì nước nó làm sao còn được ư? 27 Và nếu ta nhờ Bê-ên-xê-bun mà trừ quỉ, thì con các ngươi nhờ ai mà trừ quỉ ư? Bởi đó, chính chúng nó sẽ xử đoán các ngươi vậy. 28 Mà nếu ta cậy Thánh Linh của Đức Chúa Trời để trừ quỉ, thì nước Đức Chúa Trời đã đến tận các ngươi. 29 Hay là, có lẽ nào, ai vào nhà một người mạnh sức để cướp lấy của, mà trước không trói người mạnh sức ấy sao? Phải trói người rồi mới cướp của nhà người được. 30 Ai không ở với ta, thì nghịch cùng ta; ai không thâu hiệp với ta, thì tan ra. 31 Ấy vậy, ta phán cùng các ngươi, các tội lỗi và lời phạm thượng của người ta đều sẽ được tha; song lời phạm thượng đến Đức Thánh Linh thì sẽ chẳng được tha đâu. 32 Nếu ai nói phạm đến Con người, thì sẽ được tha; song nếu ai nói phạm đến Đức Thánh Linh, thì dầu đời nầy hay đời sau cũng sẽ chẳng được tha.
33 Hoặc cho là cây tốt thì trái cũng tốt, hoặc cho là cây xấu thì trái cũng xấu; vì xem trái thì biết cây. 34 Hỡi dòng dõi rắn lục; bay vốn là loài xấu, làm sao nói được sự tốt? Bởi vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra. 35 Người lành do nơi đã chứa điều thiện mà phát ra điều thiện; nhưng kẻ dữ do nơi đã chứa điều ác mà phát ra điều ác. 36 Vả, ta bảo các ngươi, đến ngày phán xét, người ta sẽ khai ra mọi lời hư không mà mình đã nói; 37 vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt.

Chúa chẳng khứng làm dấu lạ

(Mac 8:11,12; Lu 11:29-32)

38 Bấy giờ có mấy thầy thông giáo và người Pha-ri-si thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Bẩm thầy, chúng tôi muốn xem thầy làm dấu lạ. 39 Ngài đáp rằng: Dòng dõi hung ác gian dâm nầy xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng cho dấu lạ khác ngoài dấu lạ của đấng tiên tri Giô-na. 40 Vì Giô-na đã bị ở trong bụng cá lớn ba ngày ba đêm, cũng một thể ấy, Con người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm. 41 Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với dòng dõi nầy mà lên án nó, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng và ăn năn; mà đây nầy, có một người tôn trọng hơn Giô-na! 42 Đến ngày phán xét, nữ hoàng nam phương sẽ đứng dậy với dòng dõi nầy mà lên án nó, vì người từ nơi cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan vua Sa-lô-môn; mà đây nầy, có một người tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn!
43 Khi tà ma ra khỏi một người, thì nó đi đến nơi khô khan kiếm chỗ nghỉ, nhưng kiếm không được; 44 rồi nó nói rằng: Ta sẽ trở về nhà ta mà ta mới ra khỏi; khi trở về, thấy nhà không, quét sạch, và sửa soạn tử tế. 45 Nó bèn lại đi, đem về bảy quỉ khác dữ hơn nó nữa, cùng vào nhà đó mà ở; vậy, số phận người ấy sau lại xấu hơn trước. Dòng dõi dữ nầy cũng như vậy.

Mẹ và anh em Đức Chúa Jêsus

(Mac 3:31-35; Lu 8:19-31)

46 Khi Đức Chúa Jêsus còn phán cùng dân chúng, thì mẹ và anh em Ngài đến đứng ngoài, muốn nói cùng Ngài. 47 (Có người thưa cùng Ngài rằng: Đây nầy, mẹ và anh em thầy ở ngoài, muốn nói cùng thầy.) 48 Ngài đáp rằng: Ai là mẹ ta, ai là anh em ta? 49 Ngài giơ tay chỉ các môn đồ mình, mà phán rằng: Nầy là mẹ ta cùng anh em ta! 50 Vì hễ ai làm theo ý muốn Cha ta ở trên trời, thì người đó là anh em, chị em ta, cùng mẹ ta vậy.

12

Yêsu Jing Khua Kơ Hrơi Saƀat

(Markôs 2:23-28; Luk 6:1-5)

1Hơmâo sa wơ̆t amăng hrơi Saƀat jing hrơi pơdơi, Yêsu rơbat ƀơi jơlan găn nao amăng đang hơma pơdai arăng. Ƀing ding kơna Ñu tơua, tui anŭn ƀing gơñu čơdơ̆ng ruač mă pơdai kiăng kơ ƀơ̆ng. 2Samơ̆ tơdang ƀing Pharisai ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu laĭ hăng Yêsu tui anai, “Lăng adih, ƀing ding kơna ih hlak ngă bruă ƀu djơ̆ hăng tơlơi juăt ƀing ta kiăng kơ ngă ôh amăng hrơi Saƀat.”
3Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Hiư̆m pă ƀing gih ƀu hơmâo đŏk ôh hă, kơ tơlơi Dawid ngă laih hlâo adih tơdang ñu hăng ƀing đuaĭ tui ñu hlak rơpa? 4Ñu mŭt pơ wăl tơdron amăng sang yang hăng khăn Ơi Adai, mă ƀañ tơpŭng pơyơr laih kơ Ơi Adai laih anŭn ƀing gơñu ƀơ̆ng. Tui hăng tơlơi juăt ta, ƀañ tơpŭng anŭn kơnơ̆ng ƀing khua ngă yang đôč dưi ƀơ̆ng, tui anŭn Dawid laih anŭn ƀing đuaĭ tui ñu ƀu dưi ƀơ̆ng ôh. 5Ƀôdah hiư̆m pă ƀing gih ƀu đŏk amăng Tơlơi Juăt Môseh ôh hă, kơ tơlơi rĭm hrơi Saƀat tơdang ƀing khua ngă yang amăng Sang Yang ngă bruă amăng hrơi anŭn, ƀing gơñu ngă gao tơlơi phiăn hrơi Saƀat samơ̆ ƀing gơñu ƀu soh ôh? 6Kâo laĭ kơ ƀing gih, ră anai hơmâo sa tơlơi yom hloh kơ Sang Yang pơ anai. 7Tơlơi Ơi Adai Pơhiăp čih tui anai,
  “ ‘Ơi Adai laĭ: Kâo khăp kiăng kơ tơlơi khăp pap, samơ̆ ƀu kiăng ôh gơnam pơyơr ngă yang.’
   Tơdah ƀing gih thâo hluh hơget tơlơi anŭn kiăng laĭ, sĭt yơh ƀing gih ƀu či klă̱ kơđi ôh kơ ƀing mơnuih ƀu hơmâo tơlơi soh.
   8Kâo laĭ tui anŭn yuakơ Kâo, Ană Mơnuih, jing Khua kơ hrơi Saƀat.”

Yêsu Pơsuaih Mơnuih Jo Tơngan

(Markôs 3:1-6; Luk 6:6-11)

9Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn laih anŭn mŭt amăng sang pơjơnum amăng plei jĕ anih anŭn. 10Pơ anih anŭn hơmâo sa čô mơnuih jo tơngan. Hơmâo đơđa mơnuih pơ anŭn hlak hơduah tơhơnal tơlơi kiăng phŏng kơđi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yêsu, tui anŭn ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Djơ̆ tui hăng tơlơi phiăn ta mơ̆ kiăng kơ pơsuaih hĭ mơnuih duăm ruă amăng hrơi Saƀat?”
11Ñu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Hiư̆m pă tơdah sa čô amăng ƀing gih hơmâo sa drơi triu lê̆ amăng čroh ƀơi hrơi Saƀat, ƀing gih ƀu či nao mă tơbiă triu anŭn ôh hă? 12Sĭt biă mă sa čô mơnuih jing yom hloh kơ sa drơi triu yơh. Hơnŭn yơh, djơ̆ tui hăng tơlơi phiăn yơh kiăng kơ ngă hiam ƀơi hrơi Saƀat.”
13Giŏng anŭn, Yêsu laĭ kơ pô jo tơngan anŭn tui anai, “Yơr tơbiă bĕ tơngan ih.” Gơ̆ yơr tơbiă laih anŭn tơngan gơ̆ suaih mơtam hrup hăng tơngan gơ̆ gah adih yơh. 14Samơ̆ tơdang ƀing Pharisai tơbiă đuaĭ hĭ laih, ƀing gơñu pơčrŏng sai kiăng hơduah hơdră pơdjai hĭ Yêsu.

Yêsu Jing Pô Ding Kơna Ơi Adai Ruah Laih

(Yesayah 42:1-4)

15Tơdang Yêsu thâo krăn hơdră ƀing gơñu pơkơdơ̆ng glaĭ anŭn, Ñu đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn laih anŭn hơmâo lu mơnuih đuaĭ tui Ñu. Ñu pơsuaih hĭ abih bang tơlơi dju djuăm duăm ruă ƀing gơ̆, 16laih anŭn Ñu khă hĭ ƀing gơ̆ ƀu dưi ră ruai ôh kơ tơlơi Ñu kơ ƀing arăng thâo. 17Ñu ngă tui anŭn kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng hơdôm tơlơi Ơi Adai pơhiăp pô pơala Yesayah hơmâo čih laih tui anai:
  18“Anai nê, ding kơna Kâo, jing Pô Kâo hơmâo ruah mă laih,
   Ñu jing Pô Kâo khăp biă mă laih anŭn amăng Ñu yơh Kâo mơak mơai.
  Kâo či brơi Yang Bơngăt Kâo dŏ ƀơi Ñu,
   laih anŭn Ñu či hiăp pơhaih kơ tơlơi Kâo či ngă tơlơi tơpă hơnơ̆ng kơ ƀing kơnung djuai phara phara.
  19Ñu ƀu či pơrơjăh ƀôdah ur kač ôh
   laih anŭn ƀu hơmâo hlơi pô ôh hơmư̆ asăp pơhiăp pơgao ang Ñu ƀơi khul jơlan.
  20Ñu ƀu či pơjŏh hĭ ôh trang bo gô laih,
   kŏn pơthăm hĭ lơi groa apui dŏ asăp.
   Ñu či gir tơl brơi tơlơi tơpă hơnơ̆ng dưi hĭ yơh.
  21Amăng anăn Ñu yơh ƀing kơnung djuai phara phara či dŏ čang rơmang.”

Arăng Laĭ Yêsu Yua Tơlơi Dưi Mơ̆ng Khua Yang Sat Beelzebul

(Markôs 3:20-30; Luk 11:14-23)

22Giŏng anŭn, hơmâo mơnuih ba rai pơ Yêsu sa čô mơnuih bum mơta laih anŭn ăt kơmlô mơ̆n yuakơ yang sat ngă. Yêsu pơsuaih hĭ gơ̆ tui anŭn gơ̆ dưi pơhiăp laih anŭn ƀuh glaĭ. 23Abih bang ƀing mơnuih lu dŏ kơtuă biă mă kơ tơlơi Yêsu hơmâo ngă laih. Tui anŭn, ƀing gơñu pơtơña tui anai, “Djơ̆ mơ̆ anai jing Ană Tơčô pơtao Dawid?”
24Samơ̆ tơdang ƀing Pharisai hơmư̆ tơlơi anŭn, ƀing gơñu laĭ, “Ñu dưi puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat yua mơ̆ng tơlơi mơyang khua yang sat Beelzebul yơh.”
25Tơdang Yêsu thâo krăn abih bang tơlơi pơmĭn gơñu, Ñu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Tơdah ană plei pă pơkăh pơpha pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơdruă gơñu pô, sĭt dêh čar gơñu anŭn či răm rai hĭ yơh. Laih anŭn tơdah mơnuih lŏm kơ sa sang anŏ pơkăh pơpha pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơdruă gơñu pô, sang anŏ gơñu anŭn ăt răm glưh hĭ mơ̆n. 26Kar kaĭ mơ̆n, tơdah sa čô yang sat lŏm kơ Satan puh pơđuaĭ hĭ yang sat pơkŏn, ƀing yang sat amăng Dêh Čar Satan pơkăh pơpha pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơdruă gơñu pô, tui anŭn Dêh Čar Satan ăt či răm glưh hĭ mơ̆n. 27Tơdah Kâo yua tơlơi mơyang khua yang sat Beelzebul kiăng puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat kar hăng ƀing gih laĭ, bơ kơ ƀing ding kơna gih, ƀing gơñu yua tơlơi mơyang hlơi kiăng kơ puh pơđuaĭ hĭ ƀing yang sat lĕ? Hơnŭn yơh, ƀing ding kơna gih anŭn yơh jing hĭ ƀing phat kơđi kơ ƀing gih jing soh yuakơ ƀing gih ƀuăh laih tui anŭn. 28Samơ̆ tơdah Kâo puh pơđuaĭ hĭ yang sat hăng tơlơi dưi mơyang Yang Bơngăt Hiam Ơi Adai, sĭt tơlơi anŭn pơrơklă laih kơ ƀing gih tơlơi dưi mơyang Dêh Čar Ơi Adai truh laih kơ ƀing gih.”
29“Ƀu hơmâo ôh hlơi pô dưi klĕ mŭt amăng sang sa čô pô kơtang laih anŭn mă pơđuaĭ hĭ dram gơnam pô kơtang anŭn tơdah ñu ƀu akă hĭ ôh pô kơtang anŭn hlâo, giŏng anŭn ñu mă pơđuaĭ hĭ abih dram gơnam pô kơtang anŭn yơh.”
30“Hlơi pô ƀu dŏ gah kơ Kâo, sĭt ñu anŭn pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo yơh, laih anŭn hlơi pô ƀu pơgop pơƀut glaĭ ôh ƀing mơnuih hăng Kâo, ñu anŭn pơčơlah hĭ ƀing gơ̆ yơh. 31Yuakơ tơhơnal tơlơi anŭn yơh, Kâo laĭ kơ ƀing gih abih tơlơi soh hăng tơlơi ƀrưh mơhiăh kơ Ơi Adai, Ơi Adai či pap brơi yơh, samơ̆ hlơi pô pơhiăp ƀrưh mơhiăh kơ Yang Bơngăt Hiam, ñu anŭn Ơi Adai ƀu či pap brơi ôh. 32Hlơi pô pơhiăp sat pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Kâo, jing Ană Mơnuih, Ơi Adai či pap brơi kơ ñu, samơ̆ hlơi pô pơhiăp sat pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yang Bơngăt Hiam, ñu anŭn Ơi Adai ƀu či pap brơi ôh, wơ̆t tơdah amăng rơnŭk anai ƀôdah amăng rơnŭk pơanăp.”

Phŭn Kơyâo Hăng Boh Ñu

(Luk 6:43-45)

33Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Kiăng kơ hơmâo boh čroh hiam, ƀing ta khŏm hơmâo phŭn kơyâo hiam yơh; tơdah ƀing ta hơmâo phŭn kơyâo sat, ƀing ta ăt či hơmâo boh čroh sat mơ̆n. Ƀing ta thâo krăn phŭn kơyâo hiam ƀôdah phŭn kơyâo sat yuakơ mơ̆ng boh čroh kơyâo anŭn pơtơbiă rai yơh. 34Ơ ƀing mơnuih sat ƀai hrup hăng djuai ala tơpơ̆ng! Ƀing gih jing ƀing sat ƀai biă mă, tui anŭn ƀing gih ƀu thâo pơhiăp kơ tơlơi hiam ôh yuakơ bă blai mơ̆ng jua pơmĭn yơh tơl amăng bah pơhiăp tơbiă. 35Mơnuih hiam ngă tơlơi bruă hiam yuakơ ñu pơkom pioh laih amăng ñu pô tơlơi hiam klă kar hăng sa čô mơnuih pơkom pioh mŭk dram ñu; samơ̆ mơnuih sat ngă tơlơi bruă sat ƀai yuakơ ñu pơkom pioh laih amăng ñu pô tơlơi sat ƀai kar hăng sa čô mơnuih pơkom pioh dram gơnam răm rai ñu yơh.
36“Samơ̆ Kâo laĭ kơ ƀing gih, sĭt yơh amăng hrơi Ơi Adai či phat kơđi mơnuih mơnam, ƀing gơñu či grơ̆ng glăm mă abih bang boh hiăp đôč đač tă tăn ƀing gơñu hơmâo pơhiăp laih yơh. 37Sĭt yơh, Ơi Adai či yap ƀing gih jing tơpă hơnơ̆ng ƀôdah Ñu či klă̱ kơđi kơ ƀing gih yuakơ mơ̆ng boh hiăp ƀing gih pơhiăp yơh.”

Arăng Kiăng Ƀuh Tơlơi Mơsêh Mơyang

(Markôs 8:11, 12; Luk 11:29-32)

38Giŏng anŭn, hơmâo đơđa ƀing Pharisai laih anŭn ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt tơña hơduah mơ̆ng Yêsu tui anai, “Ơ Nai ăh, ƀing gơmơi kiăng ƀuh Ih ngă tơlơi mơsêh mơyang.”
39Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing mơnuih rơnŭk anai jing sat ƀai biă mă laih anŭn ƀu tŏng ten ôh hăng Ơi Adai. Ƀing gih tơña hơduah mơ̆ng Kâo tơlơi mơsêh mơyang hă? Ơi Adai ƀu či pha brơi kơ ƀing gih ôh rơngiao kơ gru kơnăl mơsêh mơyang Ñu pha brơi laih kơ pô pơala Yônah. 40Kar hăng Yônah dŏ laih amăng hlung akan prŏng klâo hrơi klâo mlam, ăt kar kaĭ mơ̆n, Kâo, jing Ană Mơnuih, ăt či dŏ amăng lŏn tơnah klâo hrơi klâo mlam mơ̆n. 41Amăng hrơi Ơi Adai či phat kơđi anŭn, ƀing ană plei plei prŏng Nineweh đưm hlâo adih yơh či tơgŭ klă̱ kơđi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing mơnuih rơnŭk anai. Ƀing gơñu dưi klă̱ kơđi kơ ƀing gih tui anŭn, yuakơ ƀing gơñu hơmư̆ tơlơi Yônah pơtô laih anŭn kơhma̱l lui hĭ laih tơlơi soh sat gơñu. Anai nê, hơmâo Pô prŏng hloh kơ pô pơala Yônah hlak dŏ pơ anai, samơ̆ ƀing gih ƀu kiăng hơmư̆ Ñu ôh laih anŭn kŏn kơhma̱l hĭ tơlơi soh gih lơi. 42Ƀơi hrơi Ơi Adai či phat kơđi mơnuih mơnam, hơbia mơ̆ng lŏn čar gah thu̱ng či tơgŭ klă̱ kơđi pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing mơnuih rơnŭk anai yơh. Hơbia anŭn dưi klă̱ kơđi kơ ƀing gih tui anŭn yuakơ ñu hơmâo rai laih mơ̆ng lŏn čar ataih biă mă kiăng kơ hơmư̆ tơlơi rơgơi pơtao Solomôn pơtô. Anai nê, hơmâo Pô prŏng hloh kơ pơtao Solomôn hlak dŏ pơ anai, samơ̆ ƀing gih ƀu kiăng hơmư̆ tơlơi rơgơi Ñu ôh.”

Sa Drơi Yang Sat Wơ̆t Mŭt Glaĭ Dơ̆ng

(Luk 11:24-26)

43Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Tơdah sa drơi yang sat hơmâo tơbiă đuaĭ hĭ laih mơ̆ng sa čô mơnuih, ñu či găn nao pơ tơdron ha̱r kiăng kơ hơduah anih pơdơi, samơ̆ ñu ƀu či hơduah hơmâo ôh. 44Giŏng anŭn, ñu laĭ, ‘Kâo či wơ̆t glaĭ pơ sang kâo phrâo tơbiă đuaĭ laih.’ Tơdang ñu glaĭ, ñu ƀuh sang anŭn kih rơmet hiam tŏ tơroai laih. 45Hơnŭn yơh, ñu nao jak ba tơjuh drơi yang sat pơkŏn dơ̆ng sat hloh kơ ñu pô, kiăng kơ mŭt dŏ amăng sang anŭn. Hơnăl tuč, tơlơi hơdip mơnuih anŭn răm hloh kơ hlâo adih yơh. Či hơmâo tơlơi hrup hăng anŭn yơh truh kơ ƀing mơnuih sat ƀai rơnŭk anai.”

Amĭ Hăng Ƀing Adơi Yêsu Sĭt

(Markôs 3:31-35; Luk 8:19-21)

46Tơdang Yêsu dŏ pơhiăp hăng ƀing mơnuih anŭn, hơmâo amĭ Ñu hăng ƀing adơi Ñu rai hăng dŏ pơ gah rơngiao kiăng pơhiăp hăng Ñu. 47Hơmâo sa čô mơnuih ruai hăng Yêsu tui anai, “Adih dih, amĭ Ih hrŏm hăng ƀing adơi Ih hlak dŏ gah rơngiao kiăng kơ pơhiăp hăng Ih.”
48Samơ̆ Yêsu laĭ glaĭ kơ pô ruai hăng Ñu tui anai, “Hlơi jing amĭ Kâo laih anŭn ayŏng adơi Kâo lĕ?” 49Ñu kơčrâo kơ ƀing ding kơna Ñu laih anŭn laĭ tui anai, “Anai yơh jing amĭ Kâo laih anŭn ayŏng adơi Kâo. 50Kâo laĭ tui anŭn yuakơ hlơi pô ngă tui hăng tơlơi Ama Kâo hăng adai adih kiăng, pô anŭn yơh jing ayŏng adơi Kâo, amai adơi Kâo laih anŭn jing amĭ Kâo.”