4

Môi-se khuyên dân Y-sơ-ra-ên giữ các điều răn của Đức Chúa Trời

1 Hỡi Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy nghe những mạng lịnh và luật lệ mà ta dạy các ngươi; hãy làm theo, để các ngươi được sống và vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi ban cho các ngươi nhận được. 2 Các ngươi chớ thêm chi và đừng bớt chi về điều ta truyền cho, để giữ theo các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi mà ta đã truyền.
3 Nhân dịp của Ba-anh-Phê-o, mắt các ngươi đã thấy điều Đức Giê-hô-va đã làm; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi có diệt khỏi giữa ngươi mọi kẻ tin theo Ba-anh-Phê-o. 4 Còn các ngươi, là những kẻ vẫn theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, ngày nay hết thảy còn sống. 5 Nầy đây, ta đã dạy các ngươi những mạng lịnh và luật lệ y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta đã phán dặn ta, để các ngươi làm theo ở giữa xứ mình sẽ vào đặng nhận lấy. 6 Vậy, các ngươi phải giữ làm theo các mạng lịnh và luật lệ nầy; vì ấy là sự khôn ngoan và sự thông sáng của các ngươi trước mặt các dân tộc; họ nghe nói về các luật lệ nầy, sẽ nói rằng: Dân nầy là một dân khôn ngoan và thông sáng không hai! 7 Vả chăng, há có dân lớn nào mà có các thần mình gần như chúng ta có Giê-hô-va Đức Chúa Trời gần chúng ta, mọi khi chúng ta cầu khẩn Ngài chăng? 8 Lại, há có nước lớn nào có những mạng lịnh và luật lệ công bình như cả luật pháp nầy, mà ngày nay ta đặt trước mặt các ngươi chăng?
9 Chỉ hãy giữ lấy ngươi, lo canh cẩn thận linh hồn mình, e ngươi quên những điều mà mắt mình đã thấy, hầu cho chẳng một ngày nào của đời ngươi những điều đó lìa khỏi lòng ngươi: phải dạy cho các con và cháu ngươi. 10 Hãy nhớ ngày ngươi chầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi tại Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hãy nhóm hiệp dân sự để ta khiến chúng nghe lời ta, hầu cho tập kính sợ ta đương lúc họ còn sống nơi thế thượng, và dạy lời đó cho con cái mình. 11 Vậy, các ngươi lại gần và đứng dưới núi. --- Vả, núi cả lửa cháy cho đến tận trời; có sự tối tăm, mây mịt mịt và đen kịt. --- 12 Từ trong lửa, Đức Giê-hô-va phán cùng các ngươi; các ngươi nghe một tiếng nói, nhưng không thấy một hình trạng nào; chỉ nghe một tiếng mà thôi. 13 Ngài rao truyền cho các ngươi biết sự giao ước của Ngài, tức là mười điều răn, khiến các ngươi gìn giữ lấy, và Ngài chép mười điều răn ấy trên hai bảng đá.
14 Trong lúc đó, Đức Giê-hô-va cũng phán dặn ta dạy các ngươi những mạng lịnh và luật lệ, để các ngươi làm theo tại trong xứ mà mình sẽ đi vào nhận lấy.
15 Vậy, các ngươi hãy cẩn thận giữ lấy linh hồn mình cho lắm, vì các ngươi không có thấy một hình trạng nào trong ngày Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, từ nơi giữa lửa phán cùng các ngươi, tại Hô-rếp; 16 e các ngươi phải làm hư hoại cho mình chăng, và làm một tượng chạm nào, tạo hình trạng của tà thần nào, hoặc hình của người nam hay người nữ, 17 Hoặc hình của con thú nào đi trên đất, hoặc hình của vật nào có cánh bay trên trời, 18 hoặc hình của loài côn trùng nào bò trên đất, hay là hình của con cá nào ở trong nước dưới đất; 19 lại, e khi ngươi ngước mắt lên trời thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, tức là toàn cả thiên binh, thì ngươi bị quyến dụ quì xuống trước các vì đó, và thờ lạy các tinh tú nầy mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã chia phân cho muôn dân dưới trời chăng. 20 Còn các ngươi, Đức Giê-hô-va đã chọn và rút các ngươi khỏi lò lửa bằng sắt kia, là xứ Ê-díp-tô, để các ngươi thành một dân riêng của Ngài, y như các ngươi đã là điều đó ngày nay. 21 Đoạn, Đức Giê-hô-va, vì cớ các ngươi, nổi giận cùng ta, có thề rằng ta không được đi ngang qua sông Giô-đanh, và chẳng đặng vào xứ tốt đẹp mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho ngươi làm sản nghiệp. 22 Vì ta phải chết trong xứ nầy, không đi ngang qua sông Giô-đanh được; nhưng các ngươi sẽ đi qua và nhận lấy xứ tốt đẹp ấy. 23 Khá cẩn thận giữ lấy mình, chớ quên sự giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã lập cùng các ngươi, và chớ làm tượng chạm nào, hình của vật nào mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã cấm; 24 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi như một đám lửa tiêu cháy, là Đức Chúa Trời hay kỵ tà.
25 Khi các ngươi sẽ có con cùng cháu, và khi đã ở lâu trong xứ rồi, nếu các ngươi làm bại hoại mình, làm tượng chạm nào, hình của vật chi mặc dầu, mà hành ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi để chọc Ngài nổi giận, 26 thì ngày nay ta bắt trời và đất làm chứng quyết cho các ngươi rằng các ngươi sẽ chết vội, và khuất mất khỏi xứ mà mình sẽ đi nhận lấy tại bên kia sông Giô-đanh. Các ngươi chẳng ở đó lâu dài đâu, nhưng sẽ bị tận diệt. 27 Đức Giê-hô-va sẽ tản lạc các ngươi trong các nước, chỉ còn lại số nhỏ trong các nước mà Đức Giê-hô-va sẽ dẫn các ngươi vào; 28 ở đó các ngươi sẽ cúng thờ những thần bằng cây và bằng đá, là công việc của tay loài người làm nên, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng ăn, cũng chẳng ngửi. 29 Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp. 30 Khi ngươi bị gian nan, và các việc nầy xảy đến cho ngươi, bấy giờ trong ngày cuối cùng, ngươi sẽ trở về cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vâng theo tiếng Ngài. 31 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi là Đức Chúa Trời hay thương xót sẽ không bỏ ngươi và không hủy diệt ngươi đâu; cũng chẳng quên sự giao ước mà Ngài đã thề cùng các tổ phụ ngươi.
32 Vậy, ngươi hãy hỏi học về thời kỳ có trước ngươi, từ ngày Đức Chúa Trời dựng nên loài người trên đất, tự góc trời nầy đến góc trời kia, nếu bao giờ có xảy ra việc nào lớn dường ấy, hay là người ta có nghe sự chi giống như vậy chăng? 33 tức là: há có một dân tộc nào nghe tiếng Đức Chúa Trời từ trong lửa phán ra như ngươi đã nghe, mà vẫn còn sống chăng? 34 hay là Đức Chúa Trời há có cậy lấy sự thử thách, dấu kỳ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng giơ thẳng ra, cùng cậy công sự to tát và gớm ghê, đặng thử đi chiếm một dân tộc cho mình ở giữa một dân tộc khác, như mọi điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã làm cho các ngươi tại xứ Ê-díp-tô, dưới mắt mình chăng? 35 Ngươi đã chứng kiến mọi điều đó, để nhìn biết rằng Giê-hô-va, ấy là Đức Chúa Trời, chớ không ai khác hơn Ngài. 36 Ngài từ trên trời khiến cho ngươi nghe tiếng Ngài để dạy ngươi; trên đất Ngài khiến cho ngươi thấy đám lửa lớn Ngài, và từ trong lửa ngươi có nghe lời Ngài phán ra. 37 Bởi vì Ngài yêu mến các tổ phụ ngươi, nên chọn lấy dòng dõi các người ấy, và chánh Ngài nhờ quyền năng lớn mình rút ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, 38 đặng đuổi khỏi trước mặt ngươi những dân tộc lớn hơn và mạnh hơn ngươi, đặng đưa ngươi vào xứ của dân đó, và ban cho làm sản nghiệp, y như điều ấy xảy đến ngày nay. 39 Vậy, ngày nay hãy biết và ghi tạc trong lòng ngươi rằng Giê-hô-va, ấy là Đức Chúa Trời trên trời cao kia và dưới đất thấp nầy: chẳng có ai khác.
40 Hãy giữ những luật lệ và điều răn của Ngài, mà ngày nay ta truyền cho ngươi, hầu cho ngươi và con cháu ngươi đều có phước, ở lâu dài trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho ngươi mãi mãi.

Ba thành ẩn náu ở bên kia sông Giô-đanh

41 Môi-se bèn biệt ra ba cái thành ở bên kia sông Giô-đanh, về hướng mặt trời mọc, 42 để kẻ sát nhân vô ý giết người lân cận mình, mà không có ghét trước, được thế trốn tránh và ẩn núp trong một của các thành nầy, và được sống. 43 Ấy là Bết-se nơi rừng vắng, trong xứ đồng bằng, để cho người Ru-bên; Ra-mốt nơi Ga-la-át, để cho người Gát, và Gô-lan nơi Ba-san, để cho người Ma-na-se.

Bài giảng thứ nhì: Môi-se truyền luật pháp cho dân Y-sơ-ra-ên

44 Nầy là luật pháp mà Môi-se đặt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 45 Nầy là chứng cớ, mạng lịnh, và luật lệ mà Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên khi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, 46 ở bên kia sông Giô-đanh, trong trũng đối ngang Bết-Phê-o, tại xứ Si-hôn, vua dân A-mô-rít, ở Hết-bôn, mà Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đánh bại khi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. 47 Dân Y-sơ-ra-ên chiếm xứ người luôn với xứ Óc, vua Ba-san, là hai vua dân A-mô-rít, ở tại bên kia sông Giô-đanh, về hướng mặt trời mọc, từ A-rô-e 48 trên bờ khe Ạt-nôn, cho đến núi Si-ri-ôn, nghĩa là Hẹt-môn, 49 và toàn đồng bằng bên kia sông Giô-đanh, về phía đông cho đến biển của đồng bằng, dưới triền núi Phích-ga.

4

Môi-se Catoaih Atỡng Tỗp I-sarel Yỗn Trĩh

1Chơ Môi-se pai chóq máh cũai proai neq: “Cóq anhia trĩh dũ ŏ́c phễp rit cớp ŏ́c patâp ca cứq ntôm arĩen anhia. Cóq anhia táq puai, chơ anhia bữn tamoong cớp bữn ndỡm cutễq ca Yiang Sursĩ, la Ncháu achúc achiac anhia, ntôm ễ chiau yỗn anhia. 2Anhia chỗi tữm muoi ramứh ntrớu tễ máh ŏ́c cứq patâp, cớp chỗi táh muoi ŏ́c ntrớu tễ máh ŏ́c patâp ki. Cóq anhia trĩh máh ŏ́c Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, khoiq patâp ca cứq khoiq chiau yỗn anhia. 3Moat anhia khoiq hữm chơ máh ranáq Yiang Sursĩ táq pỡ cóh Pê-or; án khoiq pupứt nheq dũ náq cũai ca cucốh sang yiang Ba-al. 4Ma dũ náq cũai ca tanoang tapứng chóq Yiang Sursĩ la Ncháu anhia, alới noâng bữn tamoong toau toâq tangái nâi.
5“Cứq khoiq arĩen máh phễp rit nâi, samoât Yiang Sursĩ, la Ncháu cứq, khoiq atỡng chơ. Yuaq ngkíq, cóq anhia táq puai máh phễp rit nâi, toâq anhia bữn ỡt tâng cutễq ca anhia ntôm pỡq cheng ĩt. 6Cóq anhia táq puai phễp rit ki yỗn tanoang tapứng, yuaq ranáq nâi têq apáh yỗn cũai canŏ́h hữm anhia cỡt cũai proai ca roan rangoaiq lứq. Toâq alới sâng tễ máh phễp rit nâi, alới ễ pai neq: ‘Máh cũai clứng nâi cỡt cũai ca bữn sarnớm rangoaiq cớp dáng raloaih!’
7“Tỡ bữn cruang aléq, tỡ la tỗp aléq, ma bữn Yiang ca sễng ỡt cheq toâq alới sễq án rachuai, samoât tỗp hái bữn Yiang Sursĩ, la Ncháu hái. Toâq hái arô sễq án chuai, án lứq rachuai. 8Tam cruang ki bữn chớc toâr lứq, ma cruang ki tỡ bữn bữn phễp rit tanoang tapứng samoât cứq arĩen anhia tâng tangái nâi. 9Cóq anhia ỡt yỗn khễuq bo anhia noâng tamoong! Cóq anhia chỗi khlĩr máh ranáq anhia khoiq hữm chơ, cớp chỗi yỗn ŏ́c patâp ki loŏh chíq tễ mứt pahỡm anhia. Cóq anhia atỡng yỗn con châu anhia dáng tê 10tễ tangái anhia bữn tayứng ỡt choâng moat Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, pỡ cóh Si-nai. Tangái ki án ớn cứq neq: ‘Cóq parỗm máh cũai proai; cứq yoc alới sâng tê tễ máh ŏ́c cứq ễ atỡng yỗn anhia trĩh, cớp yỗn yám noap cứq sốt dỡi tamoong alới, dŏq alới bữn atỡng loah yỗn con châu alới dáng tê tễ ranáq nâi.’
11“Cóq anhia atỡng máh con châu anhia tễ ranáq anhia pỡq tayứng cheq yững cóh ca bữn ramứl cubân, cớp bữn phĩac canám pếc chũop nheq, bữn dếh pla ũih suol achỗn chu paloŏng hỡ. 12Cóq anhia atỡng alới tễ ŏ́c ca Yiang Sursĩ atỡng anhia tễ pla ũih ki; anhia khoiq sâng án pai, ma án tỡ bữn sapáh yỗn anhia hữm tỗ án. 13Án yỗn ŏ́c par‑ữq pỡ anhia, dŏq anhia táq puai cớp yống pacái níc, la muoi chít ŏ́c parnai patâp ca án khoiq chĩc dŏq tâng bar khlễc tamáu. 14Yiang Sursĩ ớn cứq arĩen anhia tễ muoi chít ŏ́c patâp ki, dŏq anhia ĩt tâc tâng cutễq ca anhia ntôm ễ mut cheng ndỡm.

Môi-se Catoaih Chỗi Cucốh Rup

15“Bo Yiang Sursĩ táq ntỡng cớp anhia tễ pla ũih pỡ cóh Si-nai, anhia tỡ bữn hữm án. Ngkíq, cóq anhia ỡt yỗn khễuq, 16chỗi táq ranáq lôih na anhia sang rup yiang canŏ́h, tỡ bữn pai rup samiang tỡ la rup mansễm, 17rup charán tỡ la rup chớm, 18rup charán ca talor tỡ la sĩaq. 19Chỗi chanchớm ễ chiau sang, tỡ la táq ranáq yỗn máh ramứh anhia hữm tâng paloŏng, la moat mandang, rliang casâi, cớp máh mantỗr hỡ. Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, án yỗn cũai tễ tỗp canŏ́h cucốh sang ramứh ki. 20Ma anhia la cũai proai ca án dững aloŏh tễ cruang Ê-yip-tô, la ntốq ariang lo sarốc tac. Án dững aloŏh anhia dŏq cỡt cũai proai án, ariang tangái nâi. 21Cỗ tian anhia, Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, án cutâu mứt chóq cứq, cớp pai samoât lứq cứq tỡ têq clong crỗng Yôr-dan pỡq chu cutễq ca phốn phuor, la cutễq ca án ntôm ễ chiau yỗn anhia. 22Cứq cóq cuchĩt tâng cutễq nâi, cớp tỡ têq clong crỗng Yôr-dan. Ma anhia cheq ễ clong crỗng ki chơ pỡq cheng ndỡm cutễq ca phốn phuor ki. 23Cóq anhia yống yỗn pacái, chỗi khlĩr máh ŏ́c parkhán ca Yiang Sursĩ, Ncháu anhia, khoiq par‑ữq dŏq. Cóq anhia táq puai máh ŏ́c án khoiq ớn, cớp chỗi táq rup dŏq cucốh sang, 24yuaq Yiang Sursĩ, Ncháu anhia, cỡt samoât ũih blữ ễ chŏ́ng nheq; án tỡ bữn pruam anhia puai yiang canŏ́h.
25“Tam anhia ỡt tâng cutễq ki khoiq dũn cớp bữn con châu, ma anhia chỗi táq lôih na táq rup dŏq cucốh sang. Ranáq ki la sâuq lứq choâng moat Yiang Sursĩ cớp táq yỗn án cutâu mứt chóq anhia. 26Khân anhia táq lôih ngkíq, cứq sễq cốc cutễq cớp paloŏng cỡt tếc dáng tê dŏq chíl tỗp anhia tâng tangái nâi; khân anhia tỡ bữn trĩh santoiq cứq, ki tỡ bữn dũn noâng anhia cỡt pứt nheq tễ cloong cutễq nâi. Tỗp anhia tỡ têq ỡt dũn tâng cutễq ca anhia ễ clong crỗng Yôr-dan dŏq pỡq cheng ndỡm, cớp Ncháu lứq pupứt thréc nheq anhia. 27Yiang Sursĩ ễ táq yỗn anhia cỡt pláh chap ỡt tâng dũ cruang canŏ́h, cớp bữn bĩq náq sâng bữn tamoong. 28Tâng ntốq ki anhia cỡt cũai táq ranáq yỗn yiang aluang cớp yiang tamáu ca cũai chống táq, yiang ca nhêng ma tỡ bữn hữm, tamứng ma tỡ bữn sâng, dếh tỡ têq cha cớp tỡ têq sâng hỡi ntrớu. 29Ỡt ntốq ki anhia ễ chi-chuaq Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia; cớp khân anhia chuaq án nheq tễ mứt pahỡm, anhia lứq bữn ramóh. 30Toâq anhia ramóh túh coat cớp máh ranáq tỡ o, ntun ki anhia lứq píh loah pỡ Yiang Sursĩ cớp trĩh án. 31Yiang Sursĩ sâng sarũiq táq anhia; án tỡ bữn táh tỡ la pupứt anhia, cớp án tỡ bữn khlĩr ŏ́c án khoiq par‑ữq cớp achúc achiac anhia.
32“Tutuaiq salĩq tễ dỡi mbŏ́q, tangái ca anhia tỡ yũah cỡt, la tễ tangái ca Yiang Sursĩ tễng cũai tâng cốc cutễq nâi. Tutuaiq salĩq nheq tễ cốc cutễq nâi, cơi bữn ranáq ntrớu toâr hỡn tễ ranáq nâi tỡ? Bữn cũai aléq cơi sâng tễ ranáq salễh nneq tỡ? 33Bữn cũai proai tỗp aléq ca khoiq sâng sưong Yiang atỡng tễ pla ũih, samoât anhia khoiq sâng, ma noâng bữn tamoong? 34Bữn yiang ntrớu khớn pỡq ĩt cũai proai tễ tỗp canŏ́h dŏq cỡt cũai proai án, samoât Yiang Sursĩ, Ncháu anhia, án ca dững aloŏh anhia tễ cruang Ê-yip-tô? Ỡt choâng moat anhia toâp Yiang Sursĩ khoiq apáh chớc sốt toâr lứq tễ án na táq ranáq salễh neq: án yỗn ỗn, cớp rachíl ratáq; án táq ranáq salễh cớp ranáq ca liaq lứq, dếh táq sa‑ữi ranáq ca sâng o ễ ngcŏh. 35Yiang Sursĩ khoiq apáh yỗn anhia hữm máh ranáq nâi dŏq anhia dáng samoât lứq la ống muoi noaq án toâp la lứq Yiang Sursĩ, cớp vớt tễ án tỡ bữn yiang aléq ma sốt noâng. 36Án yỗn anhia bữn sâng sưong án tễ paloŏng dŏq atỡng anhia, cớp tâng cốc cutễq nâi án yỗn anhia hữm ũih tễ án; tễ ũih ki án táq ntỡng cớp anhia. 37Yuaq án ayooq achúc achiac anhia, chơ án rưoh cớp dững aloŏh anhia tễ cruang Ê-yip-tô na chớc sốt toâr lứq tễ án. 38Bo anhia to moat ễ mut chu cutễq ki, án khoiq tuih aloŏh máh cũai canŏ́h ca clứng hỡn cớp bữn chớc hỡn tễ anhia; án yỗn anhia ễn mut ỡt cớp ndỡm cutễq ki. 39Ngkíq, tangái nâi cóq anhia sanhữ cớp chỗi khlĩr Yiang Sursĩ, la Ncháu ca ỡt tâng pỡng paloŏng cớp ỡt tâng cloong cutễq. Lứq samoât, tỡ bữn Yiang canŏ́h. 40Cóq anhia táq puai máh phễp rit án, machớng cứq atỡng yỗn anhia dáng tangái nâi; chơ anhia cớp tỗp con châu anhia bữn ỡt ien khễ. Anhia bữn ỡt níc tâng cutễq ca Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, ntôm ễ chiau yỗn anhia ndỡm mantái níc.”

Ntốq Ca Têq Poâng Coah Tooh Crỗng Yôr-dan Yáng Angia Mandang Loŏh

41Chơ Môi-se rưoh pái vil dŏq cỡt vil miar, coah tooh crỗng Yôr-dan, yáng angia mandang loŏh. 42Tâng máh vil nâi, dũ náq cũai ca lơ cachĩt cũai canŏ́h, ma cũai ki tỡ cỡn cũai án par‑ũal, têq án mut ỡt poâng tâng vil nâi. Tâng vil nâi, tỡ bữn noau têq cachĩt án. 43Máh vil nâi la neq: Vil Be-sơ tâng cóh tapín pỡ ntốq aiq, yỗn tỗp Ruben; vil Ramôt tâng cutễq Ki-liat, yỗn tỗp Cát; cớp vil Cô-lan tâng cutễq Basan, yỗn tỗp Ma-nasê.

Môi-se Atỡng Cũai Proai I-sarel Trỗ Bar

44Môi-se chiau ŏ́c patâp cớp máh santoiq Yiang Sursĩ khoiq ớn cũai proai I-sarel. 45-46Toâq vớt tỗp alới loŏh tễ cruang Ê-yip-tô, chơ alới ỡt tâng avúng cóh coah angia mandang loŏh crỗng Yôr-dan choâng cớp vil Bet Pê-or. Pỡ ntốq ki Môi-se mbỡiq chiau ŏ́c patâp nâi yỗn tỗp alới. Vil Bet Pê-or la ỡt tâng cutễq Si-hôn puo tỗp Amô-rit; án cỡt sốt tâng vil Hê-sabôn. Môi-se cớp máh cũai proai I-sarel bữn chíl riap puo Si-hôn, tữ alới loŏh vớt tễ cruang Ê-yip-tô. 47Tỗp alới bữn ndỡm cutễq Si-hôn, la puo tỗp Amô-rit, cớp cutễq Oc, la puo tỗp Basan. Bar náq puo ki sốt coah tooh crỗng Yôr-dan coah angia mandang loŏh. 48Cutễq nâi la‑a tễ vil Arô-er coah tor crỗng Ar-nôn toau toâq angia pỡng cóh Si-rien, cóh Her-môn, 49dếh cutễq ca ỡt coah angia mandang loŏh crỗng Yôr-dan, yỗn toau toâq dỡq mưt Boi pỡ yững cóh Pit-ca.