2

Lời tiên tri về nước Giu-đa

(Từ đoạn 2 đến đoạn 45)

Sự quở trách và sửa trị

1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng: 2 Hãy đi, kêu vào tai Giê-ru-sa-lem rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta còn nhớ về ngươi lòng nhân từ của ngươi lúc đang thơ, tình yêu mến trong khi ngươi mới kết bạn, là khi ngươi theo ta nơi đồng vắng, trong đất không gieo trồng. 3 Y-sơ-ra-ên vốn là dân biệt riêng ra thánh cho Đức Giê-hô-va; vốn là trái đầu mùa của hoa lợi Ngài. Phàm những kẻ nuốt dân ấy sẽ có tội; tai vạ sẽ lâm trên họ, Đức Giê-hô-va phán vậy.
4 Hỡi nhà Gia-cốp, cùng các họ hàng nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va! 5 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Tổ phụ các ngươi có thấy điều không công bình gì trong ta, mà đã xa ta, bước theo sự hư không, và trở nên người vô ích? 6 Họ không nói: Chớ nào Đức Giê-hô-va ở đâu? Ấy là Đấng đã đem chúng ta lên khỏi đất Ê-díp-tô, đã dắt chúng ta qua đồng vắng, trong đất sa mạc đầy hầm hố, trong đất khô khan và có bóng sự chết, là đất chẳng một người nào đi qua, và không ai ở. 7 Ta đã đem các ngươi vào trong một đất có nhiều hoa quả, để ăn trái và hưởng lợi nó. Nhưng, vừa vào đó, các ngươi đã làm ô uế đất ta, đã làm cho sản nghiệp ta thành ra gớm ghiếc.
8 Các thầy tế lễ không còn nói: Nào Đức Giê-hô-va ở đâu? Những người giảng luật pháp chẳng biết ta nữa. Những kẻ chăn giữ đã bội nghịch cùng ta. Các tiên tri đã nhân danh Ba-anh mà nói tiên tri, đi theo những sự không ích gì cả. 9 Đức Giê-hô-va phán: Vì cớ đó ta sẽ còn tranh cạnh cùng các ngươi, cho đến con cháu của con cháu các ngươi nữa.
10 Hãy qua các cù lao Kít-tim mà xem! Hãy khiến người đến Kê-đa, và xét kỹ; xem thử có việc như vậy chăng. 11 Có nước nào thay đổi thần của mình, mặc dầu ấy chẳng phải là thần không? Nhưng dân ta đã đổi vinh hiển mình lấy vật vô ích! 12 Hỡi các từng trời, hãy lấy làm lạ về sự đó; hãy kinh hãi gớm ghê, hãy rất tiêu điều, Đức Giê-hô-va phán. 13 Dân ta đã làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ ta, là nguồn nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được. 14 Y-sơ-ra-ên là đầy tớ, hay là tôi mọi sanh trong nhà? Vậy sao nó đã bị phó cho sự cướp? 15 Các sư tử con gầm thét, rống lên inh ỏi nghịch cùng nó, làm cho đất nó thành ra hoang vu. Các thành nó bị đốt cháy, không có người ở nữa. 16 Con cháu của Nốp và Tác-pha-nết cũng đã làm giập sọ ngươi.
17 Mọi điều đó há chẳng phải xảy ra cho ngươi vì đã lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, khi Ngài dắt ngươi trên đường sao? 18 Hiện bây giờ, ngươi có việc gì mà đi đường qua Ê-díp-tô đặng uống nước Si-ho? Có việc gì mà đi trong đường A-si-ri đặng uống nước Sông cái? 19 Tội ác ngươi sẽ sửa phạt ngươi, sự bội nghịch ngươi sẽ trách ngươi, nên ngươi khá biết và thấy rằng lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và chẳng có lòng kính sợ ta, ấy là một sự xấu xa cay đắng, Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
20 Xưa kia ta đã bẻ ách ngươi, bứt xiềng ngươi, mà ngươi nói rằng: Tôi không vâng phục nữa; vì trên mỗi đồi cao, dưới mỗi cây xanh, ngươi đã cúi mình mà hành dâm. 21 Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt, giống đều rặc cả; mà cớ sao ngươi đã đốc ra nhánh xấu của gốc nho lạ cho ta? 22 Dầu ngươi lấy hỏa tiêu và dùng nhiều diêm cường rửa mình, tội lỗi ngươi cũng còn ghi mãi trước mặt ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
23 Sao ngươi dám nói rằng: Ta không bị ô uế; ta chẳng từng đi theo thần tượng Ba-anh? Hãy xem đường ngươi trong nơi trũng; nhận biết điều ngươi đã làm, như lạc đà một gu lanh lẹ và buông tuồng, 24 như lừa cái rừng, quen nơi đồng vắng, động tình dục mà hút gió. Trong cơn nóng nảy, ai hay xây trở nó được ư? Những kẻ tìm nó không cần mệt nhọc, đến trong tháng nó thì sẽ tìm được. 25 Hãy giữ cho chân ngươi chớ để trần, cổ ngươi chớ khát! Nhưng ngươi nói rằng: Ấy là vô ích; không, vì ta thích kẻ lạ và sẽ theo chúng nó.
26 Như kẻ trộm bị bắt, xấu hổ thể nào, thì nhà Y-sơ-ra-ên, nào vua, nào quan trưởng, nào thầy tế lễ, nào kẻ tiên tri, cũng sẽ xấu hổ thể ấy. 27 Chúng nói với gỗ rằng: Ngài là cha tôi; với đá rằng: Ngài đã sanh ra tôi. Vì chúng đã xây lưng lại cùng ta, mà không xây mặt lại với ta. Đoạn, đến ngày hoạn nạn, chúng sẽ nói rằng: Hãy chỗi dậy, cứu lấy chúng tôi! 28 Vậy chớ nào các thần mà các ngươi đã làm ra cho mình ở đâu? Nếu các thần ấy có thể cứu các ngươi trong kỳ hoạn nạn thì hãy chỗi dậy mà cứu! Hỡi Giu-đa, vì số các thần ngươi cũng bằng các thành ngươi!
29 Sao ngươi biện luận cùng ta? Các ngươi thảy đều đã phạm tội nghịch cùng ta, Đức Giê-hô-va phán vậy. 30 Ta đã đánh con cái các ngươi là vô ích: chúng nó chẳng chịu sự dạy dỗ. Gươm các ngươi đã nuốt các kẻ tiên tri mình, như sư tử phá hại. 31 Hỡi dòng dõi nầy! Hãy rõ lời Đức Giê-hô-va phán: Ta há là một đồng vắng hay là một đất tối tăm mờ mịt cho dân Y-sơ-ra-ên sao? Làm sao dân ta có nói rằng: Chúng tôi đã buông tuồng, không đến cùng Ngài nữa? 32 Con gái đồng trinh há quên đồ trang sức mình, nàng dâu mới há quên áo đẹp của mình sao? Nhưng dân ta đã quên ta từ những ngày không tính ra được.
33 Sao ngươi cứ dọn đường mình để tìm tình ái! Đến nỗi đã dạy cho những đàn bà xấu nết theo lối mình. 34 Nơi vạt áo ngươi cũng đã thấy máu của kẻ nghèo nàn vô tội, chẳng phải vì cớ nó đào ngạch, bèn là vì cớ mọi điều đó. 35 Ngươi lại còn nói rằng: Tôi là vô tội, thật cơn giận của Ngài lìa khỏi tôi! Nầy, vì ngươi nói rằng: Tôi không có tội, ừ, ta sẽ đoán xét ngươi. 36 Sao ngươi chạy mau để đổi đường ngươi? Xưa kia ngươi xấu hổ về A-si-ri, nay cũng sẽ xấu hổ về Ê-díp-tô. 37 Ngươi sẽ chắp tay lên trên đầu, mà đi ra từ nơi đó. Vì Đức Giê-hô-va ruồng bỏ những kẻ mà ngươi trông cậy, ngươi sẽ chẳng được thạnh vượng gì bởi chúng nó.

2

Yêhôwa Kwưh kơ Phung Israel lŏ Kmhal

1Yêhôwa blŭ kơ kâo, lač, 2“Nao hưn bĕ kơ knga phung ƀuôn Yêrusalem, snei Yêhôwa lač:
  ‘Kâo hdơr kơ klei jăk ih êjai ih hlăk ai,
   kơ klei ih khăp êjai jing sa čô mniê bi čuôp leh,
  kơ klei ih tui hlue kâo leh hlăm kdrăn tač,
   hlăm čar arăng amâo tuôm rah mjeh ôh.
  3Phung Israel jing doh jăk kơ Yêhôwa,
   boh hlâo hlang mơ̆ng bruă ñu.
  Jih jang hlei pô ƀơ̆ng boh anăn jing soh leh;
   klei jhat truh kơ diñu,’ ”


  4Hmư̆ bĕ klei Yêhôwa blŭ, Ơ sang Yakôp,
   leh anăn jih jang găp djuê hlăm sang Israel.
5Snei Yêhôwa lač:
   “Ya klei soh phung ama diih ƀuh hlăm kâo,
  tơl diñu đuĕ kbưi mơ̆ng kâo,
   čiăng tui hlue klei hơăi mang
   leh anăn jing hĕ hơăi mang?
  6Diñu amâo lač ôh, ‘Ti anôk Yêhôwa dôk,
   pô atăt drei leh kbiă mơ̆ng čar Êjip,
  pô atăt drei hlăm dliê
   hlăm čar kdrăn tač leh anăn mâo lu ƀăng êlam,
  hlăm čar thu krô leh anăn mmăt kpal,
   hlăm čar amâo mâo pô tuôm găn ôh,
   anôk amâo mâo mnuih dôk ôh?’
  7Leh anăn kâo atăt diih leh kơ čar mâo mnơ̆ng ƀơ̆ng huă êbeh dlai,
   čiăng brei diih mơak hŏng boh leh anăn mnơ̆ng jăk gơ̆.
  Ƀiădah tơdah diih truh leh diih bi mčhŏ leh čar kâo,
   leh anăn mjing ngăn dưn kâo jing hĕ sa mnơ̆ng arăng bi êmut kheh.
  8Phung khua ngă yang amâo lač ôh,
   ‘Ti anôk Yêhôwa dôk?’
  Phung mtô klei bhiăn amâo thâo kral kâo ôh;
   phung khua kiă kriê ngă soh hŏng kâo;
  phung khua pô hưn êlâo hưn klei yang Baal,
   leh anăn tui hlue mnơ̆ng amâo tŭ dưn ôh.”

  9“Kyuanăn kâo ăt bi tăng hŏng diih,”

   “leh anăn kâo srăng bi tăng hŏng phung čô anak diih mơh.
  10Găn nao bĕ kơ plao ksĭ Kitim čiăng dlăng,
   amâodah tiŏ arăng nao kơ phung Kêdar leh anăn ksiêm bi nik;
   dlăng bĕ thâodah tuôm mâo leh klei msĕ snei:
  11Tuôm mâo mơ̆ sa boh čar bi mlih leh yang ñu
   wăt tơdah diñu amâo jing yang sĭt ôh?
  Ƀiădah phung ƀuôn sang kâo bi mlih leh klei guh kơang diñu
   čiăng tui hlue klei amâo tŭ dưn ôh.
  12Bi kngăr bĕ kơ klei anei, Ơ phung adiê,
   kdjăt bĕ, leh anăn ênguôt bĕ,”

  13“Kyuadah phung ƀuôn sang kâo ngă leh dua mta klei soh:
   diñu lui wir kâo leh, pô jing akŏ êa hdĭp,
  leh anăn klei mă kbăng êa kơ diñu pô,
   kbăng êa kđang leh, leh anăn ƀrôč êa leh.
  14Phung Israel jing sa čô hlŭn mơ̆?
   Diñu jing dĭng buăl arăng kkiêng hlăm sang khua diñu mơ̆?
   Snăn si ngă diñu jing hĕ sa mnơ̆ng knuôp?
  15Lu êmông gu gruh
   čiăng ngă kơ diñu, digơ̆ gruh kraih ktang.
  Digơ̆ mjing leh čar diñu sa anôk êhŏng,
   ƀuôn diñu rai leh, amâo mâo mnuih dôk ôh.
  16Msĕ mơh phung êkei ƀuôn Mêmphis leh anăn ƀuôn Tahpanhes
   kuêh leh boh kŏ ih.
  17Amâo djŏ hĕ ih bi truh leh klei anei kơ ih pô
   êjai lui wir Yêhôwa Aê Diê ih,
   êjai gơ̆ atăt ih hlăm êlan?
  18Leh anăn ară anei, jing klei tŭ dưn kơ ih čiăng nao kơ čar Êjip,
   čiăng mnăm êa krông Nil?
  Amâodah ya jing klei tŭ dưn kơ ih čiăng nao kơ čar Asiri,
   čiăng mnăm êa krông Ơprat?
  19Klei soh ih srăng mkra ih pô,
   leh anăn klei ih lui wir srăng ƀuah ih.
  Ksiêm leh anăn brei ih thâo
   klei ih lui wir Yêhôwa Aê Diê ih
  jing jhat leh anăn ênguôt.
   Ih amâo lŏ huĭ mpŭ kơ kâo ôh,”


  20“Kyuadah sui leh ih bi joh hĕ knông ih
   leh anăn bi tloh klei kă ih;
  leh anăn ih lač, ‘Hmei amâo srăng lŏ mă bruă kơ ih ôh.’
   Ƀiădah ti dlông grăp kbuôn dlông
  leh anăn ti gŭ grăp ana kyâo mtah
   ih dôk đih msĕ si sa čô mniê knhông.
  21Ƀiădah kâo pla leh ih jing phŭn boh kriăk ƀâo jăk hĭn,
   mơ̆ng asăr doh amâo tuôm čhŏ ôh.
  Snăn si ngă ih bi mlih jing hĕ jhat lĕ
   leh anăn jing msĕ si phŭn boh kriăk ƀâo dliê?
  22Wăt tơdah ih mnei hŏng êa sôđa
   leh anăn hŏng lu kƀu dưn,
  gru klei soh ih ăt dôk ti anăp kâo,”


  23“Si ih dưi lač, ‘Kâo amâo jing čhŏ ôh,
   kâo amâo tuôm tui hlue yang Baal ôh?’
  Ksiêm dlăng bĕ êlan ih hlăm tlung,
   brei ih thâo săng ya klei ih ngă leh.
  Ih jing êđai aseh samô ana kƀla leh anăn hiu rưng tar ƀar anôk,
   24sa drei aseh dliê ana mưng dôk hlăm kdrăn tač,
  hrip čhuñ klei khăp knô ana!
   Hlei dưi kơ̆ng klei ñu čiăng bi drue?
  Amâo yuôm ôh knô duah ana anăn;
   knô srăng bi tuôm tơdah djŏ yan ana anăn.
  25Đăm êbat jơ̆ng mang ôh,
   leh anăn đăm brei đŏk ih mhao ôh.
  Ƀiădah ih lač, ‘Amâo lŏ mâo klei čang hmăng ôh,
   kyuadah kâo khăp leh kơ yang phung tue,
   leh anăn kâo srăng tui hlue diñu.’

  26Msĕ si sa čô knĕ hêñ tơdah arăng mă ñu,
   snăn mơh sang Israel srăng hêñ:
  diñu, phung mtao diñu, phung khua diñu,
   phung khua ngă yang diñu, leh anăn phung khua pô hưn êlâo diñu,
  27phung anăn lač kơ sa ƀĕ ana kyâo, ‘Ih jing ama kâo,’
   leh anăn lač kơ sa klŏ boh tâo, ‘Ih kkiêng kơ kâo leh.’
  Kyuadah diñu kkui rŏng kơ kâo leh,
   amâo dlăng kơ kâo ôh.
  Ƀiădah hlăm ênuk diñu rŭng răng, diñu lač,
   ‘Kgŭ leh anăn bi mtlaih hmei bĕ!’
  28Ƀiădah ti anôk phung yang ih dôk,
   phung yang anăn ih ngă leh kơ ih pô?
  Brei digơ̆ kgŭ tơdah digơ̆ dưi bi mtlaih ih,
   êjai ênuk ih mâo klei rŭng răng;
  kyuadah phung yang ih jing lu
   mdŭm hŏng jih jang ƀuôn ih, Ơ phung Yuđa.

  29Si ngă diih blŭ dŭñ dŭñ kơ kâo?
   Jih jang diih bi kdơ̆ng leh hŏng kâo,”

  30“Amâo yuôm ôh kâo bi kmhal leh phung anak diih,
   diñu amâo tŭ klei mkra ôh;
  đao gưm diih pô bi mdjiê leh phung khua pô hưn êlâo diih
   msĕ si sa drei êmông gu dôk hiêk ƀơ̆ng.”
  31Bi diih phung mnuih ênuk anei, hmư̆ bĕ klei Yêhôwa blŭ:

   “Kâo tuôm jing leh mơ̆ sa anôk kdrăn tač kơ phung Israel,
  amâodah sa boh čar mâo klei mmăt kpal?
   Snăn si ngă phung ƀuôn sang kâo lač, ‘Hmei jing êngiê,
   hmei amâo lŏ hriê kơ ih ôh?’
  32Dưi mơ̆ sa čô mniê êra hrông wơr bĭt kdrăp ñu,
   amâodah sa čô mniê bi čuôp leh wơr bĭt čhiăm ao ñu?
  Ƀiădah phung ƀuôn sang kâo wơr bĭt kâo leh
   lu hruê amâo dưi yap ôh.
  33Thâo snăk ih mkra êlan ih duah phung ih khăp!
   Snăn tơl ih bi hriăm êlan ih wăt kơ phung mniê ƀai.
  34Msĕ mơh ti kdrŭn čhiăm ao ih arăng ƀuh êrah phung ƀun ƀin amâo mâo soh ôh;
   ih amâo tuôm ƀuh digơ̆ ƀoh mtih ôh čiăng mŭt tlĕ.
   Ƀiădah wăt jih klei anăn dưn,
  35ih lač, ‘Kâo amâo soh ôh;
   sĭt nik klei ñu ăl wir đuĕ leh mơ̆ng kâo.’
  Nĕ anei, kâo srăng atăt ba ih kơ klei phat kđi,
   kyuadah ih lač, ‘Kâo amâo tuôm ngă soh ôh.’
  36Si ngă ênưih snăk ih bi mlih êlan ih!
   Phung Êjip srăng bi hêñ ih,
   msĕ si phung Asiri bi hêñ ih leh.
  37Mơ̆ng čar anăn msĕ mơh ih srăng kbiă jing mnă
   kngan ti boh kŏ,
  kyuadah Yêhôwa hngah leh phung mnuih ih knang,
   leh anăn diñu amâo srăng dưi đru ih ôh.”