12

Chúa Giê-xu cùng các bạn hữu
ở Bê-tha-ni

1Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giê-xu đến làng Bê-tha-ni, nơi La-xa-rơ cư ngụ. La-xa-rơ là người mà Chúa Giê-xu đã khiến từ chết sống lại. 2Họ tổ chức một bữa ăn cho Ngài tại đó. Ma-thê lo bưng thức ăn, còn La-xa-rơ là một trong những người cùng ăn với Ngài. 3Ma-ri lấy nguyên một chai đựng một phần tư lít dầu thơm nguyên chất rất đắt tiền xức chân Chúa Giê-xu rồi lấy tóc mình mà lau. Mùi thơm của dầu đó bay tỏa khắp nhà.
4Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một trong những môn đệ của Chúa Giê-xu, tức người về sau phản bội Ngài, có mặt ở đó. Hắn bảo, 5“Dầu nầy đáng giá khoảng ba trăm quan tiền. Sao không bán đi lấy tiền ấy giúp người nghèo?” 6Giu-đa nói thế không phải vì lo cho kẻ nghèo đâu nhưng vì hắn là tên trộm. Hắn là người giữ hộp tiền và thỉnh thoảng lấy tiêu riêng.
7Nhưng Chúa Giê-xu bảo, “Để cô ta yên! Cô làm việc rất phải vì đã để dành dầu thơm đến hôm nay là ngày chuẩn bị chôn cất ta. 8Các ngươi lúc nào cũng có người nghèo ở cạnh mình chứ không có ta ở bên luôn đâu.”

Âm mưu giết La-xa-rơ

9Nhiều người nghe Chúa Giê-xu có mặt ở Bê-tha-ni nên kéo nhau đến, không những để xem Chúa Giê-xu mà còn để xem La-xa-rơ là người mà Ngài đã khiến sống lại từ kẻ chết. 10Cho nên các giới trưởng tế bàn định giết luôn La-xa-rơ nữa. 11Tại vì La-xa-rơ mà nhiều người Do-thái bỏ họ để tin theo Chúa Giê-xu.

Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem

12Hôm sau dân chúng đến dự lễ Vượt Qua nghe tin Chúa Giê-xu sắp vào thành Giê-ru-sa-lem 13nên họ lấy nhành chà là ra mừng đón Ngài, hô lên rằng,
  “Ca ngợi Thượng Đế!
  Phúc cho Đấng đến trong danh Ngài,
   là Vua của Ít-ra-en.” Thi thiên 118:25
14Chúa Giê-xu gặp một con lừa con, liền cỡi lên như Thánh Kinh viết,
  15“Hỡi dân Ít-ra-en, đừng e sợ!
   Kìa vua các ngươi đến
   cỡi trên lưng lừa con.” Xa-cha-ri 9:9
16Lúc đầu các môn đệ của Ngài không hiểu việc nầy, nhưng sau khi Chúa Giê-xu đã được hiển vinh thì họ nhớ lại điều Thánh Kinh viết về Ngài và việc nầy mà dân chúng làm cho Ngài.
17Những người có mặt khi Chúa Giê-xu khiến La-xa-rơ từ kẻ chết sống lại và kêu ông ra khỏi mộ, thuật lại cho người khác nghe chuyện Ngài làm. 18Nên dân chúng kéo ra đón Ngài rất đông, vì họ nghe Ngài là người làm phép lạ ấy. 19Các người Pha-ri-xi bảo nhau, “Thấy không, chúng ta thua rồi! Xem kìa, cả thiên hạ đều chạy hùa theo ông ta!”

Chúa Giê-xu nói về sự sống và sự chết

20Có mấy người Hi-lạp cũng lên thành Giê-ru-sa-lem để thờ phụng trong kỳ đại lễ Vượt Qua. 21Họ đến gặp Phi-líp, người thành Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, nói rằng, “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giê-xu.” 22Phi-líp đi nói với Anh-rê rồi cả hai cùng đi nói chuyện với Chúa Giê-xu.
23Ngài bảo, “Đến giờ Con Người được hiển vinh. 24Ta bảo thật, hột lúa phải được gieo xuống đất và chết đi thì mới sinh ra nhiều hột lúa khác. Nhưng nếu nó không chết thì sẽ vẫn chỉ là một hột lúa mà thôi. 25Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất; nhưng ai ghét sự sống mình trên thế gian nầy thì sẽ giữ được sự sống thật mãi mãi. 26Ai muốn phục vụ ta thì phải theo ta. Ta ở đâu thì họ cũng ở đó. Cha ta sẽ tôn trọng người phục vụ ta.

Chúa Giê-xu nói trước về cái chết
của Ngài

27Hiện nay lòng ta rất băn khoăn—Ta nên nói, ‘Thưa Cha, xin cứu Con khỏi giờ nầy hay chăng?’ Không, đó là lý do mà Con đến giờ nầy để chịu đau khổ. 28Thưa Cha, xin hãy làm vinh hiển danh Cha!”
 Có tiếng từ trời vọng xuống rằng, “Ta đã làm vinh hiển rồi, ta sẽ còn làm vinh hiển nữa.”
29Dân chúng đứng đó nghe tiếng nói, tưởng tiếng sấm. Nhưng có kẻ khác bảo, “Một thiên sứ nói với Ngài!”
30Chúa Giê-xu bảo, “Không phải vì ta mà tiếng ấy vang ra, mà vì các ngươi. 31Đến lúc thế gian nầy bị xét xử; kẻ cầm quyền thế gian nầy sẽ bị lật đổ. 32Khi ta được treo lên khỏi mặt đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta.” 33Ngài nói vậy để ám chỉ Ngài sẽ chết cách nào.
34Dân chúng hỏi, “Chúng tôi nghe luật pháp nói rằng Đấng Cứu Thế sẽ sống đời đời mà sao thầy lại nói rằng ‘Con Người phải bị treo lên’? ‘Con Người’ là ai?”
35Chúa Giê-xu đáp, “Ánh sáng còn ở với các ngươi ít lâu nữa cho nên hãy bước đi trong khi còn có ánh sáng, để bóng tối không đuổi kịp các ngươi. Ai bước đi trong tối sẽ không biết lối đi. 36Hãy tin nơi ánh sáng trong khi còn có ánh sáng, để các ngươi làm con dân của ánh sáng.”
 Nói xong Ngài đi ẩn mình xa họ.

Một số người Do-thái vẫn không chịu tin

37Mặc dù Chúa Giê-xu đã làm nhiều phép lạ trước mặt dân chúng, nhưng họ vẫn không chịu tin Ngài. 38Như thế để lời nhà tiên tri Ê-sai được thành tựu:
  “Lạy Chúa, ai tin lời chúng tôi?
   Ai chứng kiến quyền năng Ngài?” Ê-sai 53:1
39Họ không thể tin vì như Ê-sai cũng đã nói:
  40“Ngài khiến mắt họ đui mù
   và đóng tâm trí họ lại,
  Vì nếu mắt họ thấy được,
   trí họ hiểu được,
  Họ sẽ trở lại với ta để được chữa lành.” Ê-sai 6:10
41Ê-sai nói như thế vì ông đã thấy sự vinh hiển của Chúa Giê-xu nên ông làm chứng về Ngài.
42Nhưng có nhiều người tin Ngài, trong số đó có cả những nhân vật cầm quyền. Tuy nhiên vì e ngại người Pha-ri-xi nên họ không dám tuyên bố công khai, họ sợ bị trục xuất ra khỏi hội đường. 43Họ chuộng sự ca tụng của loài người hơn của Thượng Đế.

Lời dạy của Chúa sẽ xét đoán mọi người

44Chúa Giê-xu kêu lên rằng, “Ai tin ta thì không những tin ta, mà còn tin Đấng đã sai ta đến. 45Ai thấy ta cũng thấy Đấng sai ta. 46Ta đến làm ánh sáng cho trần gian để ai tin ta sẽ không còn ở trong tối tăm nữa.
47Ai nghe lời ta mà không vâng theo, thì ta không xét xử họ. Ta đến không phải để xét xử thế gian nhưng để cứu nhân thế. 48Ai gạt bỏ ta và không tin nhận lời ta, sẽ có Đấng xét xử họ. Lời ta dạy sẽ xét xử người đó nơi ngày cuối cùng. 49Vì những điều ta dạy không phải tự ý mình. Cha là Đấng sai ta, truyền dặn ta phải nói gì, dạy bảo điều gì. 50Ta biết rằng những lời giáo huấn của Ngài dẫn đến sự sống đời đời. Vì thế những gì ta nói là do Cha ta dặn bảo ta.”

12

HʼMari Pik Ia Ƀâo Hiam Ƀơi Tơkai Yêsu Pơ Plei Bêthania

(Mathiơ 26:6-13; Markôs 14:3-9)

1Năm hrơi hlâo kơ hrơi phet Tơlơi Găn, Yêsu truh pơ plei Bêthania jing plei Lazaros dŏ, jing pô Yêsu hơmâo pơhơdip glaĭ laih tơdơi kơ ñu hơmâo djai hĭ laih. 2Pơ anŭn, HʼMartha pơkra tơlơi ƀơ̆ng huă pơpŭ pơyom kơ Yêsu, tơdang anŭn Lazaros hrŏm hơbĭt hăng ƀing dŏ be̱r kiăng kơ ƀơ̆ng huă ƀơi kơƀa̱ng hrŏm hăng Yêsu. 3Giŏng anŭn, HʼMari mă sămkrah lid ia ƀâo hiam arăng pơkra mơ̆ng phŭn nar, jing ia ƀâo hiam yom biă mă, tuh ia ƀâo anŭn ƀơi tơkai Yêsu laih anŭn mă ƀŭk ñu sut ƀơi tơkai anŭn. Amăng sang ƀâo bă hăng ia ƀâo hiam anŭn yơh.
4Samơ̆ Yudas Iskariôt, jing sa čô ding kơna laih anŭn tơdơi anai ñu pơblư̆ Yêsu, pơhiăp pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơlơi bruă anŭn tui anai, 5“Ia ƀâo hiam anŭn khŏm sĭ hĭ laih anŭn mă prăk pha brơi kơ ƀing ƀun rin! Nua yom kơ ia ƀâo hiam anŭn jing nua prăk pơtŭm kơ sa čô mơnuih amăng sa thŭn mă bruă yơh.” 6Ñu laĭ tui anŭn ƀu djơ̆ yuakơ ñu ƀlơ̆ng brơi kơ ƀing ƀun rin ôh, samơ̆ yuakơ ñu jing mơnuih klĕ dŏp. Ñu ăt jing pô djă̱ wai kơdŭng prăk laih anŭn juăt klĕ prăk mơ̆ng anŭn kơ ñu pô.
7Yêsu pơhiăp tui anai, “Anăm ƀuăh kơ gơ̆ ôh, gơ̆ ngă tui anŭn kiăng kơ prap pre kơ hrơi ƀing arăng či dơ̱r atâo Kâo tơdơi kơ Kâo djai yơh. 8Ƀing gih či hơmâo nanao yơh mơnuih ƀun rin hrŏm hăng ƀing gih, samơ̆ ƀing gih ƀu hơmâo Kâo nanao ôh.”
9Tơdang anŭn ƀing mơnuih Yehudah lu thâo krăn kơ tơlơi Yêsu dŏ pơ anŭn laih anŭn ƀing gơñu rai, ƀu djơ̆ kơnơ̆ng rai pơ Yêsu đôč ôh samơ̆ ăt kiăng ƀuh Lazaros mơ̆n, jing pô Yêsu hơmâo pơhơdip glaĭ laih tơdơi kơ ñu hơmâo djai hĭ laih. 10Tui anŭn, ƀing khua ngă yang prŏng ăt pơkra hơdră jơlan kiăng pơdjai hĭ Lazaros mơ̆n. 11Ƀing gơñu ngă tui anŭn yuakơ mơta tơlơi Lazaros jing hĭ hơdip glaĭ dơ̆ng yơh, hơmâo lu ƀing Yehudah đuaĭ tui Yêsu hăng đaŏ kơnang kơ Ñu.

Tơlơi Yêsu Mŭt Hing Ang Pơ Plei Yerusalaim

(Mathiơ 21:1-11; Markôs 11:1-11; Luk 19:28-40)

12Amăng hrơi tŏ tui anŭn, ƀing mơnuih lu, jing ƀing hơmâo rai laih kơ tơlơi phet Tơlơi Găn, hơmư̆ kơ tơlơi Yêsu hlak nao pơ plei Yerusalaim. 13Ƀing gơñu mă khul than hla đung kri nao čơkă Yêsu hăng ur hơ̆k kơdơ̆k tui anai,
  “Bơni hơơč kơ Ñu!

  “Rơkâo kơ Khua Yang Ơi Adai bơni hiam kơ Pô Ñu hơmâo pơkiaŏ rai laih!”
14Yêsu ƀuh sa drơi ană aseh glai laih anŭn đĭ ƀơi gơ̆, kar hăng sa čô pô pơala čih laih amăng Hră Ơi Adai tui anai,
  15“Ơ ƀing ană dra Ziôn, anăm ƀing gih huĭ ôh;
   anai nê, Pơtao gih hlak rai,
   jing Pô đĭ ƀơi ană aseh glai.”
16Hlak anŭn, ƀing ding kơna Yêsu ƀu thâo hluh ôh tơlơi hơdôm tơlơi truh anŭn. Kơnơ̆ng tơdơi kơ Yêsu đĭ glaĭ pơ tơlơi ang yang Ñu đôč, ƀing ding kơna Ñu thâo kơnăl kơ hơdôm tơlơi arăng hơmâo čih laih kơ tơlơi Ñu wơ̆t hăng kơ tơlơi ƀing arăng hơmâo ngă laih kơ Ñu tui anŭn.
17Ƀơi mông anŭn, đơđa ƀing mơnuih lu hơmâo dŏ hăng Yêsu laih tơdang Ñu iâu Lazaros tơbiă mơ̆ng pơsat hăng ngă laih kơ gơ̆ hơdip glaĭ dơ̆ng, ƀing gơñu pơruai kơ lu mơnuih pơkŏn tơlơi anŭn. 18Yuakơ ƀing gơñu hơmâo hơmư̆ laih kơ tơlơi Yêsu hơmâo ngă laih hơdôm tơlơi mơsêh mơyang, ƀing gơñu nao bưp Ñu yơh. 19Tui anŭn, ƀing Pharisai pơlaĭ hăng tơdruă tui anai, “Lăng adih, tơlơi anŭn či ngă brơi kơ ƀing ta ƀu dưi ngă hơget gĕt ôh kiăng kơ pơkhư̆ hĭ Ñu. Abih bang mơnuih amăng lŏn tơnah hơmâo đuaĭ tui Ñu laih.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Kơ Tơlơi Ñu Djai

20Hlak anŭn, ăt hơmâo đơđa ƀing Grek amăng ƀing mơnuih đĭ nao kơkuh pơpŭ pơ tơlơi Phet Tơlơi Găn anŭn. 21Ƀing gơñu rai pơ Philip, jing mơnuih mơ̆ng plei Bêtsaida amăng kwar Galilê, hăng rơkâo tui anai, “Ơ gơyut, ƀing gơmơi kiăng kơ bưp Yêsu.” 22Philip nao laĭ kơ Andre laih anŭn Andre hăng Philip nao laĭ hăng Yêsu yơh.
23Yêsu pơhiăp tui anai, “Hrơi mông truh laih kơ Ơi Adai pơpŭ pơyom kơ Kâo, jing Pô trŭn rai laih mơ̆ng adai. 24Kâo laĭ sĭt biă mă kơ ƀing gih, tơdah ƀu jŭ pla ôh sa jĕh pơdai amăng lŏn kar hăng djai hĭ, sa jĕh pơdai anŭn ăt dŏ kơnơ̆ng sa jĕh đôč. Samơ̆ tơdah jĕh anŭn tŭ dơ̱r kar hăng djai hĭ laih, jĕh pơdai anŭn či pơtơbiă rai lu jĕh pơdai dơ̆ng yơh. 25Hlơi pô kiăng biă mă kiăng kơ tŏ tui hơdip ƀơi lŏn tơnah anai, ñu či djai hĭ. Samơ̆ hlơi pô tŭ ư kiăng kơ djai yuakơ Kâo amăng lŏn tơnah anai, ñu či hơdip hlŏng lar amăng plei hiam yơh. 26Hlơi pô mă bruă kơ Kâo, ñu anŭn khŏm đuaĭ tui Kâo yơh. Pơpă anih Kâo dŏ, ding kơna Kâo anŭn ăt dŏ pơ anŭn mơ̆n. Ama Kâo či pơpŭ pơyom kơ hlơi pô mă bruă kơ Kâo.
27“Ră anai jua bơngăt Kâo rŭng răng biă mă laih anŭn hơget Kâo či laĭ lĕ? ‘Ơ Ama, pơklaih hĭ bĕ Kâo mơ̆ng mông gleh tơnap hăng djai anai’? Ơ ơh, samơ̆ yuakơ tơhơnal tơlơi anai yơh, Kâo rai truh pơ mông ruă nuă anai. 28Ơ Ama ăh, pơrơđah bĕ hiư̆m yom prŏng Ih jing!”
 Hlak anŭn, Ơi Adai hiăp trŭn mơ̆ng adai tui anai, “Kâo hơmâo pơrơđah laih hiư̆m yom prŏng Kâo jing laih anŭn Kâo či ngă tui anŭn dơ̆ng!”
29Ƀing mơnuih lu dŏ pơ anih anŭn hơmư̆ jua hiăp anŭn, đơđa mơnuih amăng ƀing gơñu laĭ kơ tơlơi anŭn jing jua grŏm. Ƀing pơkŏn dơ̆ng laĭ kơ tơlơi sa čô ling jang hiam hơmâo pơhiăp hrŏm hăng Ñu.
30Yêsu laĭ tui anai, “Ơi Adai pơhiăp laih kiăng kơ tŭ yua kơ ƀing gih yơh, ƀu djơ̆ kơnơ̆ng tŭ yua kơ Kâo đôč ôh. 31Ră anai jing mông kơ Ơi Adai kiăng kơ phat kơđi mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai laih anŭn Ơi Adai či dưi hĭ kơ yang sat yơh jing pô git gai mơnuih mơnam ƀơi lŏn tơnah anai. 32Samơ̆ bơ kơ Kâo, tơdang arăng yŏng đĭ Kâo mơ̆ng lŏn tơnah ƀơi kơyâo bơrơkal, Kâo či dui ba abih bang mơnuih rai pơ Kâo pô yơh.” 33Ñu laĭ kơ tơlơi anŭn kiăng pơrơđah kơ tơlơi hiư̆m Ñu či djai yơh.
34Đơđa mơnuih amăng ƀing mơnuih lu laĭ tui anai, “Ƀing gơmơi hơmâo hơmư̆ laih mơ̆ng hră Tơlơi Juăt laĭ kơ tơlơi Pô Krist či dŏ hơdip nanao, tui anŭn hiư̆m pă Ih dưi laĭ kơ tơlơi arăng či yŏng đĭ hĭ ƀơi kơyâo bơrơkal, jing Pô trŭn rai laih mơ̆ng adai lĕ? Hlơi jing ‘Pô trŭn rai mơ̆ng adai’ anŭn lĕ?”
35Giŏng anŭn, Yêsu ruai kơ ƀing gơñu tui anai, “Ƀing gih či hơmâo Kâo kar hăng tơlơi bơngač kơnơ̆ng sui ƀiă dơ̆ng đôč. Rơbat bĕ tơdang ƀing gih hơmâo tơlơi bơngač, jing hlâo kơ tơlơi kơnăm mơmŏt truh pơ ƀing gih. Hlơi pô rơbat amăng tơlơi kơnăm mơmŏt, ñu anŭn ƀu thâo ôh pơpă ñu či nao. 36Ƀing gih khŏm đaŏ kơnang kơ Kâo bĕ jing Pô kar hăng tơlơi bơngač tơdang ƀing gih ăt dŏ hơmâo Kâo anai, kiăng kơ ƀing gih dưi jing ƀing mơnuih kar hăng tơlơi bơngač kơ ƀing arăng yơh.” Tơdang Yêsu pơhiăp giŏng laih hơdôm tơlơi anŭn, Ñu đuaĭ hĭ laih anŭn pơdŏp hĭ Ñu pô mơ̆ng ƀing mơnuih lu anŭn.

Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Ƀing Yehudah Ăt Ƀu Đaŏ Kơnang Kơ Yêsu Ôh

37Wơ̆t tơdah Yêsu hơmâo ngă laih abih bang tơlơi mơsêh mơyang ƀơi anăp mơta ƀing khua djă̱ akŏ ƀing Yehudah, ƀing gơñu ăt ƀu đaŏ kơnang kơ Ñu ôh. 38Tơlơi truh anŭn kiăng kơ pơkrĕp truh hĭ tui hăng hiăp pô pơala Yesayah hơmâo čih tui anai:
  “Ơ Khua Yang, ƀiă kơ ƀu hơmâo hlơi pô ôh đaŏ kơnang kơ boh hiăp ƀing gơmơi pơtô
   wơ̆t tơdah Ih pơrơđah laih kơ ƀing gơñu hiư̆m kơtang mơyang Ih jing yơh!”
39Yuakơ tơhơnal tơlơi anŭn yơh ƀing gơñu ƀu dưi đaŏ kơnang ôh laih anŭn yuakơ tui hăng pô pơala Yesayah hơmâo laĭ tui anai dơ̆ng:
  40“Khua Yang hơmâo pơbum hĭ laih mơta gơñu,
   laih anŭn pơkhăng hĭ pran jua gơñu,
   kiăng kơ ƀing gơñu ƀu dưi ƀuh ôh hăng mơta gơñu,
   ƀu thâo hluh ôh hăng pran jua gơñu,
   kŏn thâo kơhma̱l lơi, tui anŭn Kâo, Khua Yang, či pơsuaih hĭ ƀing gơñu.”
41Yesayah pơhiăp tui anŭn đưm hlâo adih yuakơ ñu ƀuh hlâo laih hiư̆m yom prŏng Yêsu či jing laih anŭn pơhiăp laih kơ tơlơi Ñu yơh.
42Samơ̆ amăng mông anŭn ăt hơmâo lu mơnuih amăng ƀing khua ba akŏ đaŏ kơnang kơ Yêsu. Wơ̆t tơdah tui anŭn, ƀing gơñu ƀu khĭn ră ruai kơ ƀing arăng ôh, huĭ kơ ƀing Pharisai či puh pơđuaĭ hĭ ƀing gơñu mơ̆ng sang pơjơnum. 43Ƀing khua ba akŏ tơlơi đaŏ anŭn ngă tui anŭn yuakơ ƀing gơñu khăp kơ tơlơi mơnuih mơnam bơni kơ ƀing gơñu hloh kơ khăp kơ tơlơi Ơi Adai bơni kơ ƀing gơñu.
44Giŏng anŭn, Yêsu pơhiăp kraih tui anai, “Hlơi pô đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn ƀu djơ̆ đaŏ kơnang amăng Kâo đôč ôh, samơ̆ ñu anŭn ăt đaŏ kơnang kơ Pô hơmâo pơkiaŏ rai laih kâo mơ̆n. 45Tơdang ñu lăng ƀơi Kâo, anŭn jing kar hăng ñu ƀuh yơh Pô hơmâo pơkiaŏ rai laih Kâo. 46Kâo hơmâo rai laih pơ lŏn tơnah anai jing kar hăng tơlơi bơngač, kiăng kơ hlơi pô đaŏ kơnang kơ Kâo, ñu anŭn ƀu či jing hĭ pô ƀu thâo phe pho kơ tơlơi Ơi Adai ôh, samơ̆ či jing hĭ kar hăng pô ƀu dŏ amăng tơlơi kơnăm mơmŏt yơh.
47“Bơ kơ hlơi pô hơmư̆ hiăp Kâo samơ̆ ƀu gưt tui ôh, Kâo ƀu phat kơđi ñu ôh. Tơhơnal tơlơi Kâo rai ƀu djơ̆ kiăng kơ phat kơđi mơnuih mơnam lŏn tơnah anai ôh, samơ̆ kiăng kơ pơklaih hĭ ƀing gơñu yơh. 48Hơmâo sa čô Khua Phat Kơđi kơ hlơi pô ƀu tŭ ju̱m ôh Kâo laih anŭn ƀu gưt tui ôh hơdôm boh hiăp Kâo. Anŭn jing, Ơi Adai yơh či klă̱ kơđi kơ ñu ƀơi hrơi hơnăl tuč yuakơ ñu hơngah hĭ laih rĭm boh hiăp Kâo pơhiăp laih. 49Kâo laĭ tui anŭn yuakơ Kâo ƀu pơhiăp tui hăng Kâo pô ôh, samơ̆ Ama Kâo, jing Pô pơkiaŏ rai Kâo, hơmâo pơđar laih kơ Kâo hơget tơlơi Kâo či pơhiăp laih anŭn hiư̆m Kâo pơhiăp. 50Kâo thâo sĭt kơ tơlơi đaŏ kơnang kơ tơlơi Ñu pơđar jing djru kơ mơnuih mơnam hơdip hlŏng lar yơh. Tui anŭn, abih bang tơlơi Kâo pơhiăp jing kơnơ̆ng tui hăng tơlơi Ama Kâo hơmâo pơtă laih kơ Kâo kiăng kơ pơhiăp đôč.”